Dulichbui's Blog - Chùa Bà Đanh còn được gọi là Bảo Sơn tự, nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng. Từ thị xã Phủ Lý, qua cầu Hồng Phú, theo đường 21, đến cây số 7, qua cầu Quế, đi thêm 2km là đến chùa.
Cũng như các ngôi chùa khác, chùa Bà Đanh thờ Phật, song ở chùa Bà Đanh ngoài tượng Bồ Tát còn có tượng của Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và các tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Có tượng của hệ thống Tứ Phủ vì chùa thờ Tứ Pháp. Sự tích Tứ Pháp với các bà mẹ Mây(Pháp Vân), Mưa (Pháp Vũ), Sấm (Pháp Lôi), Chớp (Pháp Điện) như là sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa đã được chép trongTruyện Man Nương của Lĩnh Nam chính quái (Trần Thế Pháp, thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh – Kiều Phú, 1492).
Câu chuyện về gốc tổ Tứ Pháp được hình thành từ mẹ Phật Man Nương đã lan truyền khắp vùng đồng bằng Bắc bộ và cũng được lưu hành ở đây. Người dân Kim Bảng tin rằng, từ khi thờ Tứ Pháp, vùng Bắc Ninh được mưa thuận gió hoà, phong đăng hoà cốc, mùa màng bội thu. Do vậy, họ bèn họp nhau lên xứ bắc để xin chân nhang về thờ. Các làng Vân Lâm, Đặng Xá, Vân Châu, Bầu thôn, Bài Lễ… đã xin chân nhang, tạc tượng Tứ Pháp để thờ, từ đó, tục thờ Tứ Pháp lan truyền ở các xã vùng ven sông Đáy trên đất Hà Nam.
Dân làng Đanh cũng đang có ý định xin chân nhang ở Bắc Ninh về thờ thì xảy ra một câu chuyện lạ. Địa phương còn lưu hành một truyền thuyết sau: Trước đây, ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn nên việc sản xuất gặp nhiều khó khăn, mùa màng thất bát gây ra cảnh đói kém triền miên. Cho đến một hôm, một cụ già cao tuổi trong làng nằm mộng thấy một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang, khuôn mặt phúc hậu, vầng trán và đôi mắt thông minh hiện ra nói rằng: Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa. Nơi ấy bấy giờ là vạt rừng rậm rạp có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ, nhô mình ra mặt nước, trong rừng rộn rã tiếng chim quang cảnh thật là thần tiên.
Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông, khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ. Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ về tạc tượng.
Dân làng Đanh cũng đang có ý định xin chân nhang ở Bắc Ninh về thờ thì xảy ra một câu chuyện lạ. Địa phương còn lưu hành một truyền thuyết sau: Trước đây, ở vùng này luôn gặp mưa to, gió lớn nên việc sản xuất gặp nhiều khó khăn, mùa màng thất bát gây ra cảnh đói kém triền miên. Cho đến một hôm, một cụ già cao tuổi trong làng nằm mộng thấy một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, đoan trang, khuôn mặt phúc hậu, vầng trán và đôi mắt thông minh hiện ra nói rằng: Ta được thần cho về đây để chăm nom và chỉ khu rừng đầu làng làm nơi dựng chùa. Nơi ấy bấy giờ là vạt rừng rậm rạp có nhiều cây cổ thụ, sát bờ sông là một hòn núi nhỏ, nhô mình ra mặt nước, trong rừng rộn rã tiếng chim quang cảnh thật là thần tiên.
Ngôi chùa ban đầu được xây dựng tranh tre nứa lá đơn sơ, đến năm Vĩnh Trị, đời Lê Hy Tông, khu rừng mới được mở mang quang đãng để xây chùa lại cho khang trang. Khu vực này cấm người dân làm nhà ở nên cảnh chùa càng thêm trang nghiêm, vắng vẻ. Ngôi chùa được xây dựng ít lâu thì có một cây mít cổ thụ ở quanh chùa bỗng dưng bị gió to quật đổ. Dân làng đã đẵn lấy gỗ để tìm thợ về tạc tượng.
Bỗng nhiên có một khách thập phương tìm đến chùa nói rằng mình làm nghề tạc tượng và được báo mộng đến đây. Người khách tả hình dáng và dung nhan người con gái đã báo mộng thì thấy giống hệt vị thần đã báo mộng cho cụ già trong làng. Năm ấy gặp mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, tạc tượng gần xong thì dưới bến nước trước chùa có vật lạ, nửa nổi, nửa chìm, không trôi theo dòng nước, đẩy ra mấy lần lại thấy trôi trở lại. Thấy chuyện lạ, dân làng vớt lên xem thì hoá ra đó là một cái ngai bằng gỗ bèn rước ngay vào chùa. Thật lạ lùng, pho tượng tạc xong thì đặt vừa khít vào ngai. Từ đó trong vùng mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, tiếng đồn Thánh Bà Bảo Sơn linh ứng lan truyền khắp nơi, khách thập phương về lễ rất đông. Những người làm nghề sông nước xuôi ngược qua đoạn sông này gặp mùa lũ đều lên chùa thắp hương cầu mong yên ổn.
Truyền thuyết này có đôi nét gần gũi với truyền thuyết Man Nương, ở những chi tiết như cây gỗ trôi sông (Truyện Man Nương) và ngai gỗ trôi sông (truyền thuyết về Bà Đanh), ở bản chất của vị thần cả hai nơi thờ đều là nữ thần nông nghiệp. Ngoài ra, ở truyền thuyết về Bà Đanh ta còn thấy bóng dáng của tục thờ thần sông nước của nhân dân vùng ven sông Đáy.
Chùa quay mặt ra hướng nam mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng, giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Công trình này được tôn cao vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian, hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim. Phía ngoài cửa hai bên là hai cột đồng trụ được xây nhô hẳn ra. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu vào giữa. Hai bên cổng chính là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượng cong hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào lễ chủ yếu đi bằng cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cửa chính ở giữa mới được mở.
Qua cổng tam quan là khu vườn hoa, sân lát gạch, hai dãy hành lang hai bên. Nhà bái đường có 5 gian, hai đầu xây bít dốc, lợp ngói nam. Nhà rung đường 5 gian hai đầu xây bít dốc, lợp ngói nam, cửa đức bàn nối liền với toà bái đường. Nhà thượng diện có 3 gian, hai bên xây tường bao, phía trước là hệ thống cửa gỗ lim. Lòng nhà ở đây so với khu bái đường và trung đường thì hẹp hơn nhưng được xây cao hẳn lên. Nằm về phía tây khu chùa là khu nhà ngang gồm 5 gian, ba gian vừa dùng làm nơi thờ các vị tổ đã trụ trì ở đây, hai gian đầu hồi được ngăn thành 2 gian buồng làm nơi ở cho người tu hành. Đằng trước nhà tổ là một sân gạch, phía ngoài là khu vườn để trồng hoa với cây lưu niên. Phía đông của khu chùa là phủ thờ Mẫu làm giáp với dãy trung đường. Toàn bộ khu vực chùa có tường bao quanh.
Chùa Bà Đanh là một hệ thống tổng thể bao gồm nhiều công trình với gần 40 gian nhà. Theo nhân dân địa phương cho biết thì ngôi chùa đã được xây dựng từ lâu đời nhưng được trùng tu nhiều lần. Các công trình còn lại đều được xây dựng từ thế kỷ XIX trở lại đây.
Truyền thuyết này có đôi nét gần gũi với truyền thuyết Man Nương, ở những chi tiết như cây gỗ trôi sông (Truyện Man Nương) và ngai gỗ trôi sông (truyền thuyết về Bà Đanh), ở bản chất của vị thần cả hai nơi thờ đều là nữ thần nông nghiệp. Ngoài ra, ở truyền thuyết về Bà Đanh ta còn thấy bóng dáng của tục thờ thần sông nước của nhân dân vùng ven sông Đáy.
Chùa quay mặt ra hướng nam mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng, giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Công trình này được tôn cao vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian, hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim. Phía ngoài cửa hai bên là hai cột đồng trụ được xây nhô hẳn ra. Trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu vào giữa. Hai bên cổng chính là hai cổng nhỏ có tám mái, cửa phía trên lượng cong hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào lễ chủ yếu đi bằng cửa bên này, chỉ khi nào nhà chùa có đại lễ thì cửa chính ở giữa mới được mở.
Qua cổng tam quan là khu vườn hoa, sân lát gạch, hai dãy hành lang hai bên. Nhà bái đường có 5 gian, hai đầu xây bít dốc, lợp ngói nam. Nhà rung đường 5 gian hai đầu xây bít dốc, lợp ngói nam, cửa đức bàn nối liền với toà bái đường. Nhà thượng diện có 3 gian, hai bên xây tường bao, phía trước là hệ thống cửa gỗ lim. Lòng nhà ở đây so với khu bái đường và trung đường thì hẹp hơn nhưng được xây cao hẳn lên. Nằm về phía tây khu chùa là khu nhà ngang gồm 5 gian, ba gian vừa dùng làm nơi thờ các vị tổ đã trụ trì ở đây, hai gian đầu hồi được ngăn thành 2 gian buồng làm nơi ở cho người tu hành. Đằng trước nhà tổ là một sân gạch, phía ngoài là khu vườn để trồng hoa với cây lưu niên. Phía đông của khu chùa là phủ thờ Mẫu làm giáp với dãy trung đường. Toàn bộ khu vực chùa có tường bao quanh.
Chùa Bà Đanh là một hệ thống tổng thể bao gồm nhiều công trình với gần 40 gian nhà. Theo nhân dân địa phương cho biết thì ngôi chùa đã được xây dựng từ lâu đời nhưng được trùng tu nhiều lần. Các công trình còn lại đều được xây dựng từ thế kỷ XIX trở lại đây.
Giá trị kiến trúc điêu khắc dân gian của chùa Bà Đanh
Xưa nay khi nhắc tới chùa Bà Đanh, người ta thường hiểu đó là ngôi chùa có cảnh quan sơn thuỷ hữu tình, thanh u, cô tịch và linh thiêng nổi tiếng một thời. Chùa có vẻ đẹp cổ kính, thâm nghiêm vào loại hiếm có của tỉnh Hà Nam.
Chính giữa hệ thống của bức bàn bằng gỗ lim của tầng dưới tam quan có bức chạm ngũ phúc (5 con dơi ngậm chữ thọ). Ở mỗi cột trụ được thiết kế nhô hẳn ra phía ngoài hai tường bên, nghệ nhân xưa đều đắp nổi tường hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, cầu kỳ, uyển chuyển. Trên nóc tam quan có đắp một đôi rồng chầu mặt nguyệt bằng vôi cát và mảnh sứ, mang phong cách rồng thời Nguyễn. Đáng chú ý nhất ở tam quan là đôi rồng đá và đôi hổ đá được bố trí dọc theo hai bên bậc lên xuống, theo thế đối xứng, chầu vào nhà Bái đường. Nếu so với tượng đôi rồng chầu mặt nguyệt trên nóc tam quan, thì tượng đôi rồng đá dưới chân trong tam quan được trổ đơn giản, hiền lành hơn, còn phảng phất bóng dáng con rắn, chứ chưa mang hình kỳ đà. Tương tự như thế, đôi hổ đá ngồi chếch 450 phía sau, cũng được chạm trổ đơn giản, hiền lành, không dữ tợn như tượng ngũ hổ các nơi thờ khác. Đây là những di vật thuộc loại quý hiếm đầy chất dân gian rất cần được bảo vệ.
Xưa nay khi nhắc tới chùa Bà Đanh, người ta thường hiểu đó là ngôi chùa có cảnh quan sơn thuỷ hữu tình, thanh u, cô tịch và linh thiêng nổi tiếng một thời. Chùa có vẻ đẹp cổ kính, thâm nghiêm vào loại hiếm có của tỉnh Hà Nam.
Chính giữa hệ thống của bức bàn bằng gỗ lim của tầng dưới tam quan có bức chạm ngũ phúc (5 con dơi ngậm chữ thọ). Ở mỗi cột trụ được thiết kế nhô hẳn ra phía ngoài hai tường bên, nghệ nhân xưa đều đắp nổi tường hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, cầu kỳ, uyển chuyển. Trên nóc tam quan có đắp một đôi rồng chầu mặt nguyệt bằng vôi cát và mảnh sứ, mang phong cách rồng thời Nguyễn. Đáng chú ý nhất ở tam quan là đôi rồng đá và đôi hổ đá được bố trí dọc theo hai bên bậc lên xuống, theo thế đối xứng, chầu vào nhà Bái đường. Nếu so với tượng đôi rồng chầu mặt nguyệt trên nóc tam quan, thì tượng đôi rồng đá dưới chân trong tam quan được trổ đơn giản, hiền lành hơn, còn phảng phất bóng dáng con rắn, chứ chưa mang hình kỳ đà. Tương tự như thế, đôi hổ đá ngồi chếch 450 phía sau, cũng được chạm trổ đơn giản, hiền lành, không dữ tợn như tượng ngũ hổ các nơi thờ khác. Đây là những di vật thuộc loại quý hiếm đầy chất dân gian rất cần được bảo vệ.
Gần như toàn bộ nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc của ngôi chùa tập trung thể hiện ở nhà bái đường – nơi hành lễ thường ngày của các nhà sư và các phật tử. Nhà bái đường năm gian, khung gỗ lim, đầu hồi bít đốc và cũng đắp nổi hai con rồng. Quan sát từ giữa sân gạch, người ta sẽ thực sự hứng thú khi được chiêm ngưỡng hệ thống tượng đắp nổi theo đề tài "Tứ long chầu mặt nguyệt" trên nóc nhà mái đường. Cả bốn con rồng, từ kiểu dáng thân hình uốn lượn, đến mắt, râu, vuốt, vây đều rất sinh động, uyển chuyển, mà cũng rất dữ dội, tưởng như đang vờn nhau, bay lượn trong khoảng không bao la. Phong cách rồng thời Nguyễn thể hiện ở đây rất đậm nét.
Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, sừng sững, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, gợi cảm giác hài hoà, cân đối, vững bền. Từng đường nét của hình long, ly, quy, phượng đều toát ra vẻ tỷ mỷ, đông phu, tài hoa của các nghệ nhân xưa. Tài năng chạm khắc của nghệ nhân xưa thể hiện trên sáu cột cái của toà nhà này. Vì kèo thứ nhất (tính từ Tây sang Đông) một mặt áp tường, chạm mặt hổ phù, trúc hoá long, hoa hồng, quả đào, quả lựu.
Vì kèo thứ hai, mặt trước chạm "Ngũ phúc" (năm con dơi), hoa mai, hoa hồng dàn tranh, bút lông quả và bầu rượu, mặt sau chạm (ngũ long tranh châu), hoa hồng, hoa lan, mai hoá. Vì kèo thứ ba, mặt trước chạm "Tứ linh" (long, ly, quy, phượng), "Tùng mã" (từng và ngựa), "Mai điểu" (hoa mai và chim), quá giang chạm đàn tranh, đàn nguyệt, phách, mặt sau, chạm "Tứ linh", bầu rượu, cuốn thư. Vì kèo thứ tư, mặt trước phía trên chạm "Lưỡng long chầu nguyệt", phía dưới chạm "Tứ linh", quá giang: chạm hoa hồng, cây tùng, cuốn thư, kim tiền, đàn và sáo. Vì kèo thứ năm, mặt trước chạm mặt hồ phù, nghê chầu hai bên, mai hoá, quá giang chạm: quả đào, phật thủ, quả lựu, hoa hồng, cuốn thư và con dơi, mặt sau: chạm "Ngũ phúc", quả đào, hoa hồng, cuốn thư. Vì kèo thứ sáu, (một mặt áp tường) chạm mặt hổ phù, thông hoá long, trúc hoá long, trên quá giang chạm quả đào, mai, trúc, nho, lựu, đào mai, quạt vải. Ngoài sáu vì kèo còn có sáu cột cái bằng gỗ lim, đứng giáp ranh giữa nhà bái đường và nhà trung đường. Trên mỗi thân cột đều chạm chìm hình rồng leo chầu vào ban thờ ở giữa gian thứ ba với các nét chạm rất tinh xảo.
Về mặt đề tài, nếu là động vật, thì nghệ nhân đắp nổi hay chạm theo đề tài: "Tứ long" (long, ly, quy, phượng), "Ngũ phúc" (năm con dơi), "Lưỡng long chầu nguyệt", "Ngũ long tranh châu", "Tứ long chầu mặt nguyệt", nếu là thực vật, thì có các đề tài: "Tứ quý" (Tùng, cúc, trúc, mai), "Bát quả" (đào, nho, lựu, vả, phật thủ), nếu là thực vật kết hợp, thì các các đề tài: "Mai điểu" (Hoa mai và chim), "Tùng mã" (cây tùng và ngựa), "Trúc hóa long", "Thông hoá long"… Ngoài ra, còn có đề tài quen thuộc như dàn tranh, dàn nguyệt, phách, sáo, bút lông, bầu rượu, quạt quả vả mà dân gian vẫn hiểu là "Bát bảo" (tám loại quý). Trong quá trình sáng tạo, nghệ nhân xưa đã kết hợp thể hiện những đề tài ước lệ tượng trưng của nghệ thuật mang tính cung đình ("Tứ linh", "Ngũ phúc", "Lương long chầu nguyệt", "Ngũ long tranh châu", "Mai điểu", "Tứ quý", "Tùng mã") với những đề tài thuộc nghệ thuật dân gian như "Ngũ quả", "Bát quả", đàn, sáo, nhị, phách. Lối thể hiện phối hợp khéo léo giữa lối chạm nổi, chạm long với lối chạm chìm. Tất cả đều được cách điệu hoá mà vẫn có hồn, sinh động.
Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.
Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, sừng sững, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, gợi cảm giác hài hoà, cân đối, vững bền. Từng đường nét của hình long, ly, quy, phượng đều toát ra vẻ tỷ mỷ, đông phu, tài hoa của các nghệ nhân xưa. Tài năng chạm khắc của nghệ nhân xưa thể hiện trên sáu cột cái của toà nhà này. Vì kèo thứ nhất (tính từ Tây sang Đông) một mặt áp tường, chạm mặt hổ phù, trúc hoá long, hoa hồng, quả đào, quả lựu.
Vì kèo thứ hai, mặt trước chạm "Ngũ phúc" (năm con dơi), hoa mai, hoa hồng dàn tranh, bút lông quả và bầu rượu, mặt sau chạm (ngũ long tranh châu), hoa hồng, hoa lan, mai hoá. Vì kèo thứ ba, mặt trước chạm "Tứ linh" (long, ly, quy, phượng), "Tùng mã" (từng và ngựa), "Mai điểu" (hoa mai và chim), quá giang chạm đàn tranh, đàn nguyệt, phách, mặt sau, chạm "Tứ linh", bầu rượu, cuốn thư. Vì kèo thứ tư, mặt trước phía trên chạm "Lưỡng long chầu nguyệt", phía dưới chạm "Tứ linh", quá giang: chạm hoa hồng, cây tùng, cuốn thư, kim tiền, đàn và sáo. Vì kèo thứ năm, mặt trước chạm mặt hồ phù, nghê chầu hai bên, mai hoá, quá giang chạm: quả đào, phật thủ, quả lựu, hoa hồng, cuốn thư và con dơi, mặt sau: chạm "Ngũ phúc", quả đào, hoa hồng, cuốn thư. Vì kèo thứ sáu, (một mặt áp tường) chạm mặt hổ phù, thông hoá long, trúc hoá long, trên quá giang chạm quả đào, mai, trúc, nho, lựu, đào mai, quạt vải. Ngoài sáu vì kèo còn có sáu cột cái bằng gỗ lim, đứng giáp ranh giữa nhà bái đường và nhà trung đường. Trên mỗi thân cột đều chạm chìm hình rồng leo chầu vào ban thờ ở giữa gian thứ ba với các nét chạm rất tinh xảo.
Về mặt đề tài, nếu là động vật, thì nghệ nhân đắp nổi hay chạm theo đề tài: "Tứ long" (long, ly, quy, phượng), "Ngũ phúc" (năm con dơi), "Lưỡng long chầu nguyệt", "Ngũ long tranh châu", "Tứ long chầu mặt nguyệt", nếu là thực vật, thì có các đề tài: "Tứ quý" (Tùng, cúc, trúc, mai), "Bát quả" (đào, nho, lựu, vả, phật thủ), nếu là thực vật kết hợp, thì các các đề tài: "Mai điểu" (Hoa mai và chim), "Tùng mã" (cây tùng và ngựa), "Trúc hóa long", "Thông hoá long"… Ngoài ra, còn có đề tài quen thuộc như dàn tranh, dàn nguyệt, phách, sáo, bút lông, bầu rượu, quạt quả vả mà dân gian vẫn hiểu là "Bát bảo" (tám loại quý). Trong quá trình sáng tạo, nghệ nhân xưa đã kết hợp thể hiện những đề tài ước lệ tượng trưng của nghệ thuật mang tính cung đình ("Tứ linh", "Ngũ phúc", "Lương long chầu nguyệt", "Ngũ long tranh châu", "Mai điểu", "Tứ quý", "Tùng mã") với những đề tài thuộc nghệ thuật dân gian như "Ngũ quả", "Bát quả", đàn, sáo, nhị, phách. Lối thể hiện phối hợp khéo léo giữa lối chạm nổi, chạm long với lối chạm chìm. Tất cả đều được cách điệu hoá mà vẫn có hồn, sinh động.
Trong nhà thượng đường của chùa Bà Đanh, có nhiều tượng thờ như tượng Tam thế, tượng Ngọc Hoàng và thái thượng Lão Quân, tượng Bà Chúa Đanh. Có thể coi pho tượng Bà Đanh là một trung tâm của chùa. Tượng được tạc theo tư thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng (chứ không phải là toà sen), với khuôn mặt đẹp, hiền từ, đầy nữ tính, gần gũi và thân thiết, chứ không có dáng vẻ siêu thoát, thần bí như các tượng Phật khác. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc chùa Bà Đanh.
Tại sao gọi là Chùa Bà Đanh:
Sư thầy Thích Đàm Đam giải thích: “Từ trước tới nay dân làng Đanh đều truyền tai nhau rằng ngôi chùa này rất linh thiêng, ai trái ý hoặc phỉ báng sẽ bị trừng trị... Vì thế khách thập phương không dám đến.
Mặt khác chùa Bà Đanh ở một vị thế vắng vẻ không tiện đường giao thông, cũng như chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng đắn của các cấp ban ngành địa phương.
Theo Website Tỉnh Hà Nam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét