Hình như lúc cô đơn nhất là lúc ta cần họ nhất. Và khi ta cảm nhận được hơi ấm từ những cái bóng lừng lững của họ vẫn còn mãi với thời gian, ta thấy mùa đông Hà Nội ấm lên trong giá lạnh…
----------
Chục năm nay tôi có điều kiện để cữ cuối năm thế nào cũng có ít nhất một cú đáp ra Hà Nội hưởng lạnh. Với những gã sinh ở Bắc rồi hành phương Nam định cư như tôi, cuối năm cha nào cũng có cảm giác thẫn thờ nhớ. Bình thường đã nhớ, thấy cái gì liên quan lại càng nhớ, nhưng phải cữ cuối năm, khi cái rét vằn lên, khi trời xám xịt màu chì, những cơn gió như dao cắt, khi con cua con rạm loi ngoi trong bấc, thì nỗi nhớ ấy nó mới bùng lên, như lửa đốt, như dùi nung...
Mà Hà Nội lạnh thật. Năm nay tôi ra, đã chuẩn bị đủ áo khăn chống rét thế mà cứ co ro xuýt xoa. Nhưng lạnh thì lạnh, mấy nhà thơ phương Nam sống ở Bắc từ nhỏ chúng tôi đêm nào cũng lôi nhau lang thang các vỉa hè, hết rượu vặt lại cà phê, hết cà phê lại chè chén, có khi chả gì cả, bệt trên một cái ghế đá lạnh băng, nghênh mũi ra đón gió, nhìn mặt hồ vô tư lự lăn tăn tỏa sóng rồi mà bâng quơ như vô thức “Quán cóc liêu xiêu một câu thơ/ Hồ Tây tím mờ…”.
Sáng ấy, ngày lạnh nhất, thường thì Noel là ngày lạnh nhất, hôm ấy là Noel, tôi và nhà văn Vũ Hồng cùng 2 nhà thơ trẻ Hà Nội ngồi cà phê vỉa hè Tuệ Tĩnh- Nguyễn Bỉnh Khiêm, bỗngVũ Hồng chỉ cái ghế nhựa sát gốc bàng vênh lên vì rễ quá to đội vỉa hè, bảo, ông Nguyễn Quang Sáng mỗi lần ra Hà Nội đều ngồi ở quán này, đúng cái bàn xi măng ốp gạch men xanh kia. Một ly cà phê và một buổi sáng. Ông Sáng uống rượu nhưng chỉ uống buổi tối, buối sáng ông uống cà phê. Trong khi Vũ Hồng loay hoay chụp ảnh cái bàn ấy, bảo biết đâu sau này có việc thì chúng tôi ngồi nói chuyện vu vơ với nhau về một điều không hề vu vơ: Dấu ấn người nổi tiếng.
Thì nào là ở Pháp, ở Anh, ngay cả Nga cũng thế, những cái quán, cái ghế, những nơi thiên tài đã ghé đều được chủ quán, hoặc công chúng lưu giữ trân trọng, có làm hồ sơ lý lịch hẳn hoi. Này là Gô Gôn, Ban Dắc. Này thì Đích Ken, Huy Gô, Đây Pút Kin Sếch Pia… Thôi thì Vũ Hồng cứ làm việc chụp ảnh đi, có khi lại được việc. Như ở Pleiku có bài hát rất hay “Còn chút gì để nhớ” của Phạm Duy và Vũ Hữu Định, rồi ngay Hà Nội này, Trịnh Công Sơn đã từng nằm đâu đó ở một căn phòng nào đó để viết “Hà Nội mùa thu”… hát cứ hát, nhớ cứ nhớ, nhưng đến một lúc nào đấy, dấu ấn cũng như vết tích của nó có khi nhạt nhòa thậm chí biến mất đâu đó.
Nào là nếu thử nhé, lấy cái compa vạch một bán kính quanh Bờ Bồ Hoàn Kiếm khoảng 500m để tìm những dấu chân danh nhân đã đi xa. Văn Cao, Nguyễn Tuân, Trần Dần, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi.... Nơi nào họ đã hẹn rồi tới gặp nhau để rượu vặt, để cà phê trong buốt giá, để ngồi chờ ấm trà đủ ngấm rồi hơ tay trên chén chè nóng trong đêm khuya buốt lạnh, nơi nào họ trầm ngâm một mình trước khi những hình tượng nghệ thuật bật ra, nơi nào họ tranh luận với nhau, nơi nào những bóng hồng từng hút mắt họ…?
Trước khi lên Tuyên Quang, tôi rất thích bài hát “Sông Lô chiều cuối năm” và đặc biệt là một câu thơ tưởng như rất vu vơ của nhà thơ Trúc Cương, vu vơ mà ám ảnh, mà khiến mình day dứt, mình phải lẩm nhẩm để mà nhớ, mà biến nó thành thân thuộc trong mình, dù mình chưa bao giờ thấy nó, chưa bao giờ được đến, và nếu có ai đó chẻ hoe ra bảo nó hay chỗ nào thì cũng chịu. Câu thơ ấy là “Tuyên có gì đâu cớ sao ta nhớ”. Nhiều khi thơ nói riêng, nghệ thuật nói chung, có sức ám ảnh đến lạ kỳ, đến không cắt nghĩa được, chỉ có thể chấp nhận vô điều kiện, kiểu như chết đứ đừ đừ của một tình yêu sét đánh… Và ít nhất người Tuyên Quang tự hào là, có thêm một kẻ là tôi, yêu Tuyên Quang của họ từ một bài hát và một câu thơ, để rồi mà phải bằng mọi cách tìm lên, và với một tâm thức như thế, thì khi chạm mặt, Tuyên Quang không thể kém hơn so với tưởng tượng của tôi.
Té ra nghệ thuật nó có một sức mạnh kỳ lạ, làm ấm con người, chia sẻ với con người, khi con người cô đơn, giá lạnh. Và phía sau những tác phẩm nghệ thuật để đời ấy, là những nhân cách và tài năng nghệ sĩ. Bóng của họ trùm lên cuộc đời này, dù nếu gặp họ, thấy họ nhiều lúc cũng… như ta, cũng co ro suýt xoa, cũng vỉa hè suỵt soạt, cũng ăn cũng uống, cũng ho cũng xổ mũi… nhưng khi họ mất đi, từng vỉa hè, từng góc phố… ta vẫn gặp họ, là bởi họ đã trở thành một phần của đời sống, hay chính xác, họ đã hóa thân vào tác phẩm, để rồi, ở đâu đó, những khoảnh khắc nào đó, ta chợt cần họ, ấy là lúc ta bật lên một câu, một khúc, một đoạn của họ, như chúng tôi đêm ấy tự nhiên cùng bật lên: “Hồ Tây tím mờ”…
Hình như lúc cô đơn nhất là lúc ta cần họ nhất. Và khi ta cảm nhận được hơi ấm từ những cái bóng lừng lững của họ vẫn còn mãi với thời gian, ta thấy mùa đông Hà Nội ấm lên trong giá lạnh…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét