Chúng tôi quyết định sẽ nấu ăn bữa trưa tại nhà ông. Có cân thịt lợn và mấy con cá khô mua ở chợ thị trấn, tôi xắn tay vào bếp. Ông xách cây nỏ, giương tên và… xoạch, mũi tên găm giữa ức một con gà giò. Con gà mắc ở bụi cây, ông ra xách lên và chịu trách nhiệm… nướng. Một đống củi được nhóm, gác con gà lên trên, lông cháy khét lẹt. Cháy đến đâu nhổ lông đến đấy, cuối cùng thì con gà cũng xong, loang lổ đen trắng nâu. Tôi dành phần chế biến tiếp thì ông lụi cụi nấu cơm… Chúng tôi có một bữa cơm trưa rất ngon ở nhà ông, và nhờ thế mà khi về tôi có đến mấy bài báo viết về ông, khẳng định ông chính là A Sanh huyền thoại trong bài hát hồi nào.
------------
------------
Lần lữa mãi, cuối cùng thì tháng 9 này, một ngày không mưa nhưng trời cứ sầm sì như nhăm nhăm chực đổ nước, tôi một mình vào lại xã Ia Khai, huyện Ia Grai sau khi nghe tin sở Văn hóa Thể thao và du lịch Gia Lai vừa làm văn bản đề nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh cho “Bến đò A Sanh”.
Gần hai chục năm trước, tôi đã đến đây, là một trong những người cầm bút đầu tiên “phát hiện” ra A Sanh, lôi ông từ một bãi thả bò về, “phục dựng” lại chân dung ông, để cuối cùng ông từ tên thật là Puih San, trở thành A Sanh huyền thoại.
Lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ phải ghi nhận một hiện tượng, ấy là cùng một lúc ở tỉnh Gia Lai có ba bài hát về ba người nổi tiếng, mà cả ba người ấy đều còn sống. Chả biết có ai quy định không, nhưng thường là việc đặt tên đường, viết bài hát cụ thể về nhân vật, thường là phải chờ nhân vật… quy tiên đã. Thế mà thời ấy, ba bài hát nổi tiếng về ba nhân vật nổi tiếng là “Ca ngợi anh hùng Núp” của Trần Quý, “Con suối La La” của Huy Thục viết về Bùi Ngọc Đủ và “người lái đò trên sông Pô Kô” nhạc Cầm Phong lời thơ Đào Mai Trang viết về người lái đò A Sanh trở thành bộ tam thường xuyên được yêu cầu phát lại trên đài Tiếng nói Việt Nam. tên các ông được xướng lên rành rành trong bài hát, một việc rất khó khi sáng tác nhạc.
Tôi cũng là người yêu cả ba bài hát ấy từ nhỏ. Cho đến khi tốt nghiệp đại học rồi lên Tây Nguyên công tác, tôi vẫn tưởng cả ba nhân vật ấy chỉ còn trong cổ tích. Cho đến một ngày tôi gặp ông Núp bằng xương bằng thịt, rồi lại còn được phân công viết bài cho ông đọc trong buổi tiếp ông nhà văn Ni Ku Lin người Nga. rồi sau lại còn nhiều lần uống rượu với ông. Ông Bùi Ngọc Đủ thì mãi sau mới biết ông đang công tác mặt trận ở huyện Đăk Đoa. Riêng ông A Sanh, rất nhiều lần ngang dọc Pô Kô nhưng tôi không nghĩ rằng mình đang ở gần người đàn ông nổi tiếng mà lại rất lặng lẽ ấy. Cho đến một hôm, một đồng nghiệp vô tình kể cho tôi nghe rằng anh mới... gặp A Sanh. Tôi sửng sốt vì cứ nghĩ A Sanh... hy sinh từ đời nào rồi. Thế là hôm sau, tôi cùng một nhóm các nhà báo xuyên qua bụi đỏ bằng xe máy gần trăm cây số đi tìm ông. Sự thật buồn quá. Ông vô cùng nghèo, không còn nói được tiếng Kinh, dấu tích một thời chiến tranh chỉ còn là mấy cái giấy khen quăn qoeo ám khói cuốn trong một cái ống tre giắt trên mái nhà... Chúng tôi góp tiền lại biếu ông, và điều này buồn hơn: ông không phân biệt được mệnh giá tiền, không biết tờ nào ra tờ nào?...
Thời ấy vào nhà A Sanh chúng tôi phải… trùm áo mưa phóng xe máy giữa trời nắng hừng hực, thế mà vào đến nơi bỏ áo mưa ra người vẫn như một cây bụi đỏ lừ. Nhiều đoạn xe sa lầy vào… bụi, bánh xe lút bum quay tít mà không bám vào được cốt đường. Nhờ chị Thúy Cải, chủ tịch mặt trận huyện, người từng là lính ở chiến trường Tây Nguyên, rất am hiểu và nói thông thạo tiếng Jrai, đi cùng mà chúng tôi mới có thể tìm được ông ở bãi chăn bò. Khi được một đứa cháu dắt về, ông khép nép sợ sệt như chưa bao giờ gặp người… Kinh. Dáng cao lòng khòng, đóng khố cởi trần và không nói tiếng Kinh, mọi giao dịch ngôn ngữ phải qua chị Cải. Nhưng khi nhắc về bến đò phà 10 thì ông hoạt bát hẳn, nói tiếng Jrai không dấu cộng thêm điệu bộ phụ họa bằng tay khiến cuộc nói chuyện bớt tẻ.
Chúng tôi quyết định sẽ nấu ăn bữa trưa tại nhà ông. Có cân thịt lợn và mấy con cá khô mua ở chợ thị trấn, tôi xắn tay vào bếp. Ông xách cây nỏ, giương tên và… xoạch, mũi tên găm giữa ức một con gà giò. Con gà mắc ở bụi cây, ông ra xách lên và chịu trách nhiệm… nướng. Một đống củi được nhóm, gác con gà lên trên, lông cháy khét lẹt. Cháy đến đâu nhổ lông đến đấy, cuối cùng thì con gà cũng xong, loang lổ đen trắng nâu. Tôi dành phần chế biến tiếp thì ông lụi cụi nấu cơm… Chúng tôi có một bữa cơm trưa rất ngon ở nhà ông, và nhờ thế mà khi về tôi có đến mấy bài báo viết về ông, khẳng định ông chính là A Sanh huyền thoại trong bài hát hồi nào.
Sau này tôi được biết, khi viết bài hát “Người lái đò trên sông pô Kô”, cả nhạc sĩ Cầm Phong và nhà thơ nhà báo Đào Mai Trang đều chưa ai biết… A Sanh. Mà thời ấy, khi bài hát đã nổi tiếng thì bộ đội ai qua sông cũng đều gọi những người lính lái đò là A Sanh, cứ A Sanh ơi cho qua sông với là một con đò lao vút sang đón người…
Trên dòng sông Pô Kô qua đất Ia Grai thời ấy có ba bến đò, hồi ấy gọi là phà, là phà 6 phà 8 và phà 10. Phà 6 và 10 đã chìm theo thủy điện Sê San rồi, giờ chỉ còn phà 8. Người Jrai vùng này có nghề đẽo thuyền độc mộc từ cây rừng, bơi lặn rất giỏi và đánh cá cũng cừ. Tiểu đội chèo thuyền độc mộc đưa bộ đội sang sông, phục vụ quân đội được tuyển từ những chàng trai người Jrai ưu tú nhất, Puih San là một trong những chàng trai ưu tú ấy…
Khi tôi đến lần đầu thì thấy con sông Pô Kô qua đoạn này rất nhỏ, nước xanh biếc, lững lờ chảy. Cố hình dung những ngày bom đạn, những đêm đưa bộ đội qua sông của tiểu đội thanh niên Jrai với những lúc dòng sông hung dữ cuộn lên, đục ngầu màu đỏ của bụi ba zan và cả máu mà rất khó. Nói chuyện qua phiên dịch của chị Cải, có chai nút lá chuối chúng tôi mang theo gợi hứng, chúng tôi biết Puih San và tiểu đội của ông đã có 3000 đêm không ngủ để đưa bộ đội và vũ khí các loại qua sông. Ba nghìn đêm, các chàng trai Jrai này đã bảo đảm giao thông thông suốt, đưa hàng ngàn bộ đội qua sông, hàng vạn tấn vũ khí vào chiến trường, và cũng như thế, các thương binh trở ra…
Đêm ấy, thương binh về nhiều. Hai bộ đội cáng một thương binh. Con thuyền độc mộc của ông đã có gần mười cái võng xuống, tức là đã gần ba chục con người, trong khi thuyền ông chở hết cỡ cũng chỉ không quá mười lăm người. Ai cũng vội sang sông nên không ai chịu xuống chờ chuyến sau. Đã có to tiếng xảy ra. Ông lên bờ ngồi khóc vì bất lực, nhưng rồi thương binh vẫn về, máy bay thì quần thảo. Thế là ông tặc lưỡi. Ra đến giữa sông, một loạt bom phía thượng nguồn. Hơi bom khiến thuyền lật. Tối mò mò. La hét thất thanh một hồi rồi tất cả im lặng, im đến rợn người. Tối đen, bóng tối như có thể thò tay bốc được từng mảng. Tay ông vẫn cầm mái chèo. Sức ông chỉ mấy sải là đã tới bờ. Một số bộ đội khỏe mạnh cũng bơi được, nhưng thương binh phần lớn là chìm hết. Tối quá, không thể thấy ai để cứu. Im lặng. Im lặng đến rợn người. Như chưa từng có ai qua sông. Như chưa từng có trận bom trước đó…
Ông bỏ lên bờ, thề không bao giờ bước chân xuống nước nữa.
Đại tá Lâm Huế, là người Huế nhưng suốt thời quân ngũ cho đến giờ ông gắn bó với Tây Nguyên, khi ấy là trung đoàn trưởng, giờ đã về hưu và vẫn ở tại thành phố Pleiku, kể rằng: “Thời đó bom đạn ác liệt vô cùng vì địch biết đây là cửa khẩu huyết mạch của chiến trường Tây nguyên và Lào. Chúng vãi bom đạn như mưa, không kể ngày đêm. Thế mà kỳ lạ, dưới những cơn mưa bom đạn ấy, hàng ngàn quân vẫn lần lượt qua sông, dưới tay chèo A Sanh”... Rơ Chăm Lim, một trong những tiểu đội trưởng tiểu đội lái đò trên dòng sông pô Kô năm nào, giờ vẫn sống ở xã Ia Khai huyện Ia Grai thì kể: “Để đưa bộ đội qua sông an toàn phải bố trí đến ba tiểu đội, ngoài tiểu đội chèo đò còn có một tiểu đội phụ trách phòng không đề phòng máy bay Mỹ thả bom, rồi một tiểu đội bảo vệ ở phía bờ bên kia đề phòng địch từ phía Campuchia tràn sang”…
Chuyến đi ấy khi về tôi đã viết về ông, viết về những gì tôi được nghe, đã thấy, và cả bằng cảm xúc của một kẻ hậu sinh lần đầu đến cái nơi tưởng như sẽ không bao giờ được tới. Viết bằng tất cả sự chân thành với một sự ngưỡng mộ thánh thiện. Bài đầu tiên đăng trên tạp chí Văn Nghệ Gia Lai. Hồi ấy công trình nhà máy thủy điện Ia Ly đang hồi xây dựng tấp nập, lúc cao điểm nhất có đến 25 ngàn công nhân và kỹ sư làm việc trên công trường. Công ty Sông Đà 8 có một ông giám đốc rất hay đọc báo. Một hôm ông đọc bài của tôi trên tạp chí, rồi trong giao ban cả công ty, ông đưa bài này ra đọc cho tất cả công nhân nghe, thảo luận, học tập, noi gương… và cuối cùng thì… quyên góp. Ngoài phần của công ty, của công đoàn, đoàn thanh niên công ty, thì cán bộ công nhân viên công ty đều đóng góp từ tiền túi của mình…
Một sáng đẹp trời, tòa soạn Tạp chí Văn Nghệ Gia Lai nhận được cú điện thoại- hồi ấy toàn điện thoại bàn- đầu dây xưng là giám đốc công ty Sông Đà 8, xin gặp tác giả Văn Công Hùng. May thay, tôi chính là người đang nghe máy đầu này. Anh kể chuyện đã đọc bài báo của tôi và xúc động thế nào, chuyện công ty phát động đợt học tập và noi gương A sanh ra làm sao, rằng là giờ anh có chăn màn quần áo xoong nồi mì tôm gạo, tiền mặt và sổ tiết kiệm… muốn mang vào tặng A Sanh, và mời tôi đi cùng. Nhưng tôi chỉ cho anh rằng, từ chỗ anh vào làng A Sanh gần hơn, nếu anh ra đón tôi rồi vào thì sẽ xa thêm cả trăm cây số nữa. Giờ tôi đang lái xe một mình chạy bon bon vào làng A Sanh, vừa lái vừa ngắm cảnh huýt sáo, sáu chục cây chả nhằm nhò gì, nhưng hồi ấy là cả một vấn đề, nên tôi bàn là anh cứ từ công ty vào thẳng huyện, tôi sẽ điện nhờ chị Cải đưa các anh đi. Chị Cải sẽ đợi các anh ở huyện, từ huyện vào làng còn hơn năm chục cây nữa…
Sau đấy, các báo tiếp tục vào cuộc. Một đài truyền hình làm riêng một chương trình về ông. Và ông tiếp tục được thăm hỏi, tặng quà. Bộ Tư pháp xây tặng hẳn một ngôi nhà tình nghĩa. Và cuối cùng, cái gì đến phải đến, sau khi địa phương làm hồ sơ, ông được mời ra Hà Nội dự lễ phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đích thân Thượng tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phạm Văn Trà gắn Huân chương cho trung úy A Sanh. Điều kì lạ, và chính vì thế nó tôn cao phẩm chất anh hùng của ông là khi tiếp xúc, ông luôn coi hơn 3000 đêm thức trắng đưa đò chở bộ đội kia cũng bình thường như công việc chăn bò làm rẫy của ông hôm nay. Ông chỉ ân hận, mãi mãi ân hận, là đã có một lần ông cả nể, không cương quyết khi để cho anh em thương binh ào lên thuyền của ông đông quá, nhiều hơn tải trọng cho phép. Và gặp bom, đò chìm. Mà đêm thì tối mênh mông. Nhắc lại chuyện này tôi vẫn thấy mắt ông dại đi một nỗi buồn thăm thẳm...
Hôm nay, tôi lại một mình một xe chạy xuống Ia Khai, chỉ là chạy vu vơ thôi. Đường nhựa phẳng lì dẫn đến thủy điện Sê San 3A, Sê San 4 và công ty 715 của binh đoàn 15 chuyên trồng và kinh doanh cao su. Một tiếng đồng hồ đã đến nơi, lại xuýt xoa nhớ cái đận quấn áo mưa chạy xe máy giữa trời nắng, trọn một buổi mới tới nơi. Và khi về mới thảm hại, vì gặp mưa, mới sáng bụi đỏ mù mịt lút cả nửa mét mà giờ nhoe nhoét bùn đỏ. Quả thật, giờ tôi không thể nhận ra đây đã từng là chiến trường ác liệt. Con sông nhỏ, hiền hòa, lững lờ chảy, hai bên bờ, cây cối mọc rất trữ tình. Bên kia là Campuchia. Những thảm hoa dại trắng trinh nguyên dập dềnh bướm. Thì cũng đã mấy chục năm rồi còn gì? Dấu tích xưa, có chăng, rõ rệt nhất là loài cỏ Mỹ mọc um tùm bên sông. Bài hát thi thoảng vẫn được hát, còn ông, đã có lúc ông lẫn vào buôn làng, nương rẫy, lẫn vào với cộng đồng nhân dân của mình…
Nhưng có chuyện vui là, sau khi ông được phong anh hùng thì một bạn viết quen tôi ở Kon Tum điện kể rằng, anh cũng đang có hồ sơ về một A Sanh thứ thiệt. Anh này đúng tên là A Sanh, cũng từng lái đò trên sông Pô Kô (Sông Pô Kô chảy từ Kon Tum về Gia Lai men theo biên giới Việt Nam- Campuchia). Quả là người Bahnar ở Kon Tum thì mới có họ A ở đầu- cũng không phải là họ, mà là một cách phân biệt giới tính, A là nam còn Y là nữ. Còn ông A Sanh mà tôi đang kể thì có tên là Puih San, tức họ Puih. Người Jrai có các họ: Puih, R’com, Rmăh, Nay, Ksor… chứ không có họ A.
Thì biết làm sao, chỉ một bến phà mà đã có đến 3 tiểu đội A Sanh, mà trên con sông Pô Kô ấy có đến bao nhiêu bến phà. Theo số thứ tự thì bến đò ở Ia Kha đã là phà 10, vậy thì nhân lên phải có hàng mấy trăm A Sanh. Và rõ ràng là không thể phong cho tất cả mấy trăm a Sanh ấy thành anh hùng hết. Và A Sanh Puih San được phong, hầu như không có ai thắc mắc, ai cũng thấy là ông xứng đáng…
Bây giờ thì ông đã thành người thiên cổ sau khi sống một cách vinh quang ở cõi đời này 64 năm. Ông ra đi ngay những ngày đầu xuân năm 2000, sau khi nhận danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân hơn một năm. Hồi ấy, tôi có biết tin nhưng rồi cũng đã không xuống viếng ông được. Xa xôi quá, rồi lại biết bao cái cớ để mình an tâm thoái thác mà lương tâm không bị cắn rứt. Tưởng là thế nhưng té ra không phải thế. Vẫn cứ khắc khoải một nỗi ân hận, dẫu chỉ như là mơ hồ thôi. Và đấy là lý do mà hôm nay tôi xuống lại Ia Kha, xuống lại Pô Kô. Nắm nhang tôi thắp trước bàn thờ ông cứ hầng hậc chực bùng lên giữa cái hanh hao nắng chờ mưa tháng 9…
0 nhận xét:
Đăng nhận xét