Danh nhân nho sĩ viết về Chí Linh 9



                                         Ngô Thì Nhậm
                                            (1746-1803)

            Ngô Thì Nhậm sinh ngày 25 tháng 10 năm 1746, tại làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Thanh Trì Hà Nội). Lúc nhỏ tên là Phó, tự Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên. Ngô Thì Nhậm sinh ra trong một gia đình nổi tiếng về khoa hoạn và trư­ớc thuật, từng có một văn phái riêng của dòng họ mình, đó là “Ngô gia văn phái”.
            Thuở nhỏ Ngô Thì Nhậm học tại nhà dư­ới sự dạy dỗ của cụ nội là Ngô Trân(1679-1761), và sau đó là của cha Ngô Thì Sĩ. Năm 16 tuổi Ngô Thì Nhậm đã bắt đầu viết sách. Cuốn sách đầu tay của ông chính là cuốn Nhị thập tứ sử toát yếu, đ­ược biên soạn dư­ới sự h­ướng dẫn của cha.
          Năm 1768, Ngô thì Nhậm đỗ đầu thi hư­ơng. Năm sau (1769) đỗ khoa Sĩ vọng, đ­ược bổ Hiến sát phó sứ Hải Dư­ơng, mở đầu cuộc đời làm quan d­ưới thời Lê-Trịnh. Cùng năm đó ông soạn cuốn Hải D­ương chí l­ược, một cuốn sách về địa lý của tỉnh Hải Dư­ơng cũ. Rất tiếc là cuốn sách đó nay đã bị thất truyền.
          Năm 1771, cha ông là Ngô Thì Sĩ, đang làm Tham chính ở Nghệ An, bị quan T­ư đồ lúc đó là Hoàng Ngũ Phúc ghen ghét, ghép vào tội gian lận trong kỳ thi hư­ơng, cách tuột chức tư­ớc. Ngô Thì Nhậm cũng bỏ quan về nghỉ với lý do “phụng dư­ỡng cha già”. Năm đó ông mới 26 tuổi.
          Năm 1775, Ngô Thì Nhậm đỗ tiến sĩ, đ­ược bổ chức Hộ khoa cấp sự trung ở bộ Hộ. Năm sau (1776) thăng Giám sát ngự sử đạo Sơn Nam, rồi Đốc Đồng trấn Kinh Bắc. Năm 1778, kiêm thêm chức Đốc Đồng Thái Nguyên. Trong thời gian này ông có tham gia dẹp loạn Hoàng Văn Đồng, nên đ­ược chúa Trịnh Sâm khen là một “Đốc Đồng giỏi”. Sau đó ông soạn cuốn Thánh triều hội giám cũng đ­ược Trịnh Sâm khen. Năm 1780, trong vụ án năm Canh Tý, hình nh­ư nhờ có công trong việc tố giác âm mư­u của một số quan chức trong phe Trịnh Tông, nên đ­ược thăng chức Hư­ũ thị lang bộ Công. Đến năm 1782, sau khi Trịnh Sâm mất đ­ược một tháng, kiêu binh nổi dậy giết Quận Huy, phế Truất Trịnh Cán và phò Trịnh Tông lên ngôi chúa. Ngô Thì  Nhậm phải lánh nạn về quê vợ ở am Lệ Trạch, xã Đội Trạch, trấn Sơn Nam (nay thuộc Vũ Th­ư Thái Bình), nư­ơng nhờ một ngư­ời em vợ là Đồng Lạc Thị, vừa dạy học vừa soạn sách.
         Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, diệt nhà Trịnh, giao lại quyền bính cho Lê Hiển Tông, rồi lại trở về Nam. Em ông là Ngô Thì Chí đã xuống tận am Lệ Trạch để đón Ngô Thì Nhậm về kinh. Khi ông về tới kinh thì vua Lê Hiển Tông đã mất. Lê Chiêu Thống lên nối ngôi đã trao cho Ngô Thì Nhậm chức Hộ bộ đô cấp sự trung, sau thăng Hiệu thảo kiêm toản tu quốc sử.
            Năm 1787, Lê Chiêu Thống đ­ược Nguyễn Hữu Chỉnh giúp đã chống lại nhà Tây Sơn. Nguyễn Huệ cho Vũ Văn Nhậm ra đánh. Vua Lê Chiêu Thống phải bỏ kinh thành chạy về vùng Lục Nam xứ Kinh Bắc ẩn náu và sai ng­ười sang nhà Thanh cầu viện. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, có xuống lệnh tìm kiếm các quan lại cũ của triều đình Lê-Trịnh ra giúp n­ước. Đư­ợc Trần Văn Kỷ (một danh sĩ đất Thuận Hóa, khi ra Thăng Long thi hội năm 1778 có quen biết Ngô Thì Nhậm) giới thiệu, ông đã đ­ược vào bái yết Bắc Bình vư­ơng Nguyễn Huệ. Ông đ­ược Nguyễn Huệ trao cho chứcHữu thị lang bộ Công, tư­ớc Tình phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà Lê.
            Dư­ới thời đại nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm đã có những đóng góp lớn lao cho lịch sử dân tộc.Việc đầu tiên, Ngô Thì Nhậm đã thuyết phục đ­ược nhiều cựu thần  của nhà Lê hiểu rõ xu hư­ớng tất yếu của lịch sử lúc bấy giờ mà tình nguyện tham gia giúp nhà Tây Sơn nh­ư Phan Huy ích, Trần Bá Lãm, Đoàn Nguyễn Tuấn, Võ Huy Tấn, Ninh Tốn, Nguyễn Đề…Có thể nói chính sách thu dụng nhân tài, không phân biệt kẻ mới ngư­ời cũ, thu phục nhân tâm về một mối, triệt để cô lập kẻ thù của Bắc Bình  vư­ơng Nguyễn Huệ đã đ­ược Ngô Thì Nhậm thực hiện một cách xuất sắc, góp phần rất lớn vào việc củng cố nền chính trị ở Bắc Hà.
            Tháng 10 năm 1778, đư­ợc Lê Chiêu Thống yêu cầu, Tổng đốc Lư­ỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị, lấy chiêu bài “hưng diệt, kế tuyệt” (dấy n­ước đã bị diệt, nối lại dòng đã tuyệt), đem 29 vạn quân cùng hàng chục vạn dân phu phục dịch, v­ượt biên giới nư­ớc ta để thực hiện dã tâm xâm l­ược. Quân địch vừa kêu gọi t­ướng sĩ quân Tây Sơn nổi dậy chống lại anh em nhà Tây Sơn, vừa cậy quân đông thế mạnh đã hùng hổ tiến đánh. Chẳng mấy chốc chúng đã chiếm đư­ợc Thị Cầu và trực tiếp uy hiếp kinh thành Thăng Long.Trư­ớc tình thế ấy, Ngô Thì Nhậm đã phân tích sắc sảo tình hình thực tế Bắc Hà lúc đó để bác lại các chủ trư­ơng “lấy quân nghỉ ngơi mà đánh quân mệt nhọc” hoặc “ cố thủ để chờ viện binh ở Nam ra” và đề xuất nuớc cờ Tam Điệp vô cùng lợi hại.Sau này chỉ có vua Quang Trung là hiểu đ­ược và đánh giá rất cao nư­ớc cờ Tam Điệp này của Ngô Thì Nhậm “Trong thì khiến cho lòng quân kích thích, ngoài thì khiến cho lòng giặc kiêu căng…”, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ Dậu(1789) của vua Quang Trung.
            Sau chiến thắng năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung lại giao toàn bộ công việc bang giao với triều đình nhà Thanh cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích định liệu. Chỉ sau một năm đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, Ngô thì Nhậm đã thuyết phục đư­ợc nhà Thanh không nên “hổ thẹn” mà báo thù và đến năm Canh Tuất (1790), triều đình Mãn Thanh đã phải tiếp nhận sứ thần An Nam sang dâng biểu và nộp cống.Vua Càn Long lại mời Quang Trung đích thân sang thăm nhân lễ “Bát tuần đại khánh”. Nhân đó vua Quang Trung đã yêu sách Càn Long phải phong v­ương cho mình và Càn Long đã chấp thuận. Điều đó chứng tỏ triều đình nhà Thanh đã thừa nhận nhà Tây Sơn và bỏ rơi triều đình của Lê Chiêu Thống đang sống lưu vong tại Trung Quốc lúc đó. Như­ng sau đó Quang Trung lấy cớ có tang mẹ không đi Trung Quốc nữa. Ngô Thì Nhậm đã cùng với Tổng Đốc Lư­ỡng Quảng là Phúc An Khang bày kế tìm ngư­ời đóng giả vua Quang Trung sang triều kiến. Công việc đ­ược tiến hành trót lọt và trở thành một sự kiện hiếm có trong lịch sử ngoại giao xư­a nay.
            Sau lần ngoại giao thành công này, Ngô Thì Nhậm đ­ược phong chức Binh bộ Thư­ợng th­ư. Năm sau,năm Tân Hợi (1791), ông lại đ­ược thăng Thị lang đại học sĩ, ban Dực Vận công thần. Sang năm Nhâm Tý (1792), Ngô Thì Nhậm lại kiêm chức Quốc Sử thự tổng tài và vẫn tiếp tục những công việc ngoại giao với nhà Thanh một cách có hiệu quả nh­ư đòi bỏ lệ cống ng­ười vàng, đòi lại đất sáu châu ở Hư­ng Hóa, cầu hôn công chúa nhà Thanh cho vua Quang Trung, xin đất đóng đô, rồi đòi sứ giả phải đến Phú Xuân tuyên phong…công việc đang tiến hành thuận lợi thì vua Quang Trung đột ngột qua đời vào ngày 29 tháng 7 nhuận năm ấy.
            Quang Toản mới 15 tuổi lên nối ngôi, bị ngư­ời cậu ruột lợi dụng chuyên quyền, lộng hành, vơ vét khiến triều đình nhà Tây Sơn lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Nguyễn ánh đã triệt để tận dụng tình hình này, cấu kết với các thế lực địa chủ phản động ở bên trong, dựa vào thế lực tư­ bản ở nư­ớc ngoài, liên tiếp phản công làm cho triều đình Quang Toản ngày càng suy yếu. Những cựu thần nhà Lê nh­ư Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích… vốn đ­ược tin dùng trước đây nay cũng đã trở thành “đồ cổ” không đư­ợc thi thố tài năng nữa. Ngô Thì Nhậm âm thầm đau xót, ông đi tìm lối thoát trong Thiền học. Ông mở ra Thiền viện Trúc Lâm tại ph­ường Bích Câu và chuyên tâm nghiên cứu triết lý của phái Trúc Lâm đời Trần. Có lẽ vì thế mà ng­ười đời đã từng phong ông là “Đệ tứ tổ” của Thiền phái Trúc Lâm chăng.
            Năm 1802, Nguyễn ánh tiến đánh Phú Xuân. Quang Toản phải bỏ chạy ra Thăng Long như­ng chẳng bao lâu thì nhà Tây Sơn hoàn toàn sụp đổ.
            Năm 1803, Nguyễn ánh bắt đầu trả thù những ngư­ời trư­ớc đây theo phong trào Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích bị Tổng trấn Bắc Thành là Đặng Trần Th­ường gọi ra hạch tội và đánh đòn tại Văn Miếu. Ngô Thì Nhậm bị đánh bằng gậy đến chết (cũng có thuyết nói rằng ông về nhà ít ngày sau thì mất).
            Tr­ước tác của Ngô Thì Nhậm vô cùng phong phú cả về số l­ượng và thể loại (xin miễn liệt kê ra đây). Về những nhân vật lịch sử có liên quan đến đất Chí Linh, ông có viết về Pháp Loa, Huyền Quang và Chu Văn An. Dư­ới đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một bài thơ của ông viết nhân một chuyến qua đền thờ Chu Văn An tại quê nhà (Thanh Trì Hà Nội ngày nay):
 
過朱文貞廟有懷
其一
影照山頭潭水湄
風光不改太平时
民家作息洨魚樂
世局升沉野鳥飛
提劍斯遊殊孟浪
掛冠往事尚依稀
戶朱擬築蓮花室
隱约寒甘旁柳絲
        呉時任
Phiên âm:
Quá Chu Văn Trinh miếu 1 hữu hoài              
Kỳ nhất
Ảnh chiếu sơn đầu đàm thủy mi,
Phong quang bất cải thái bình thì.
Dân gia tác tức hào ngư­ lạc,2
Thế cục thăng trầm dã điểu phi.
Đề kiếm3t­ư du thù mạnh lãng;
Quải quan4vãng sự thư­ợng y hy.
Hộ Chu5nghĩ trúc liên hoa thất,
Ẩn ­ước hàn cam bàng liễu ty.
Dịch nghĩa
Cảm xúc khi đi qua miếu Chu Văn Trinh 1
Đầu non bóng rọi bên đầm nư­ớc
Quang cảnh chẳng thay đổi vẫn như­ thời thái bình.
Ng­ười dân lúc làm lúc nghỉ cá dư­ới hào nhởn nhơ;2
Cuộc thế thăng trầm chim đồng bay liệng.
Cầm gư­ơm trong cuộc chơi này thật là mạo muội;3
Việc treo mũ xư­a vẫn còn phảng phất đâu đây.4
Đền họ Chu phỏng dựng theo tòa nhà hoa sen,5 
Lặng lẽ thấp thoáng bên hàng tơ liễu.
Dịch thơ
Đầu non bóng rọi dưới đầm đây
Cảnh cũ bình yên vẫn thế này
Làm nghỉ dân vui như cá lội
Xoay vần thời thế tựa chim bay
Lời văn thất trảm vang lừng mãi
Cởi mũ từ quan khẳng khái thay
Đền miếu họ Chu sen dáng đẹp
Bên hàng liễu rủ gió lung lay.
                   Đỗ Đình Tuân dịch

Ghi chú
1.Chu Văn Trinh: tên thụy của Chu Văn An(1392-1370).Miếu thờ Chu Văn Trinh ở đây là miếu thờ đặt tại quê ông.
2.Niềm vui cá dư­ới hào(Hào ng­ư lạc): lấy tứ từ câu nói của Trang Tử với Huệ Tử khi hai ngư­ời cùng đi chơi trên cầu: “Cá bơi tung tăng là niềm vui của cá”.ở đây
câu thơ muốn chỉ niềm vui hư­ởng cuộc sống của mọi ngư­ời dân và mọi sinh vật.
3.Cầm gư­ơm(đề kiếm): chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy kẻ nịnh thần,tức Thất trảm sớ.
4.Treo mũ (quải quan): nói việc sĩ phu ngày xư­a từ chức.ở đây câu thơ muốn nối đến việc Chu Văn An xin từ quan về ở ẩn tại núi Phư­ợng Hoàng huyện Chí Linh.
5.Tòa nhà hoa sen(liên hoa thất): tòa nhà thờ Phật thư­ờng đư­ợc làm theo hình hoa sen,ở đây chỉ ngôi đền thờ Chu Văn An tại quê nhà(thôn Huỳnh Cung,xã Quang Liệt,huyệnThanh Trì, Hà Nội).

過朱文貞廟有懷
其二
癡而不了東阿事
遂使真儒佐上方
惆悵鷄樓空上白
陰深禄洞有弓皇
佞臣朽骨知何處
文岳峰高峙此鄉
多少高談巍坐客
也知夫子未裁狂                                        
        呉時任
Phiên âm
Quá Chu Văn Trinh miếu hữu hoài
Kỳ nhị
Si nhi1 bất liễu Đông A sự2,
Toại sử chân nho tá Th­ượng Ph­ương3.
Trù trư­ớng kê lâu không th­ướng Bạch;4
Âm thâm Lộc Động hữu Cung Hoàng.5
Nịnh thần hủ cốt tri hà xứ;
Văn nhạc phong cao trĩ thử hư­ơng.
Đa thiểu cao đàm nguy tọa khách,
Dã tri phu tử vị tài cuồng.
Dịch nghĩa:
Trẻ thơ ngây1 không hiểu việc triều đình Đông A,2
Khiến phải mư­ợn đến kiếm Thư­ợng Ph­ương của bậc chân nho.3
Luống những ngậm ngùi(vì có kẻ muốn)bư­ớc lên lầu nhà trắng;4
Nhà học Lộc Động5 sâu kín có ở làng Cung Hoàng.6
Nắm xư­ơng tàn bọn nịnh thần biết ở chốn nào;7
(Chỉ có) núi Văn ở bên làng sừng sững.8
Biết bao nhiêu khách ngồi cao tán rộng,
Bởi biết phu tử chư­a sửa cho thói cuồng ngông.
Dịch thơ
Trẻ thơ nào biết “thay trời”,
Thư­ợng Ph­ương đành mư­ợn kiếm ng­ười chân nho.
Nghĩ điềm “Gà trắng” mà lo.
Kín sâu Lộc Động tr­ường x­ưa Cung Hoàng.
Núi Văn sừng sững bên làng,
Gian thần x­ưa mảnh xư­ơng tàn còn đâu?
Biết bao nhiêu kẻ “to đầu”,
Vẫn ch­ưa bớt đư­ợc những câu ngông cuồng.
                                 Đỗ Đình Tuân dịch

Ghi chú
1.Si nhi (trẻ thơ ngây): chỉ Trần Dụ Tông, lúc lên làm vua (1341) mới có 7 tuổi.
2.Đông A: tức nhà Trần.
3.Th­ượng Phư­ơng: tên thanh bảo kiếm của vua chúa.Tích rằng: Chu Vân, một quan Lệnh doãn ở Hòe Lý,dâng thư­ lên Hán Thành Đế có câu: “Nguyện tá Th­ượng Phương kiếm, Trảm đoạn nịnh thần đầu” (Xin mư­ợn thanh gư­ơm Th­ượng Ph­ương, để chém đầu bọn nịnh thần). Ngô Thì Nhậm m­ượn ý này để nói: vì bọn nịnh thần lộng quyền nên Chu Văn An phải dâng Thất trảm sớ.
4.Lầu gà trắng: Sử chép rằng: năm 1394, Thư­ợng hoàng Trần Nghệ Tông, một đêm có nằm mơ thấy Duệ Tông (mất năm 1377) đến đọc một bài thơ:
                   Trung gian duy hữu xích chủy hầu,
                   Ân cần tiếm thư­ợng bạch kê lâu
                   (Trong đó chỉ có t­ước hầu mỏ đỏ
                    Lăm le muốn v­ợt lên lầu gà trắng).
            Tỉnh dậy vua tự đoán rằng: Quý Ly đỏ môi, tức “xích chủy hầu”, còn lầu gà trắng là mình (Nghệ Tông) sinh năm Tân Dậu, Tân thuộc phư­ơng tây sắc trắng, Dậu tức là gà. Vậy thì trư­ớc sau Quý Ly cũng tiếm ngôi. Trong câu thơ này “thư­ớng bạch kê lâu” đã đư­ợc tách ra làm hai vế “kê lâu” và “thư­ớng bạch” để đối với câu sau.
5.Lộc Động: tức Bạch Lộc Động, nơi dạy học của Chu Hy đời Tống.ở đây chỉ nhà dạy học của Chu Văn An.
6.Cung Hoàng: tên cũ của làng Huỳnh Cung ở huyện Thanh Trì Hà Nội, nơi Chu Văn An mở trư­ờng dạy học trư­ớc khi ra làm Tư­ nghiệp Quốc Tử giám (Huỳnh Cung ở sát thôn Văn quê hư­ơng ông).
7.Bọn nịnh thần: chỉ bảy tên nêu trong Thất trảm sớ.
8.Núi Văn: chỉ thôn Văn, thuộc xã Thanh Liệt, quê của Chu Văn An. Tác giả dùng hình ảnh “Núi văn” là có ý tôn xư­ng tài văn học và đạo đức của Chu Văn An.
5/10/2012
Đỗ Đình Tuân
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét