Thứ bảy, 07/12/2013, 21:47 GMT+7
Một nhóm nghiên cứu thuộc Trường đại học y Hải Phòng và Trường đại học Kanazawa (Nhật Bản) đã thu thập 633 mẫu huyết thanh từ đối tượng tiêm chích ma tuý (TCMT) và gái mại dâm (GMD) tại các Trung tâm Giáo dục và Lao động xã hội, Thành phố Hải Phòng. Kết quả: tỷ lệ nhiễm HBV ở cả hai nhóm đối tượng TCMT và GMD tại Hải Phòng là 10,59%. Tỷ lệ đột biến gen kháng thuốc lamivudine trong 67 chủng HBV nghiên cứu là 3,84% và kháng thuốc adefovir và entercavir là 0%.
Viêm gan virut B (HBV) là vấn đề sức khỏe được quan tâm trên toàn thế giới. Khoảng 5% dân số thế giới bị nhiễm HBV, tương đương với 350 triệu người . Theo kết quả nghiên cứu tháng 9 - 2008 trên 1.077 đối tượng ở Hải Phòng, tỷ lệ nhiễm HBV là 12,2%. Đa số nhiễm HBV mạn tính, một số khá lớn là tình trạng viêm gan B mạn tính và có nhu cầu điều trị bệnh. Thuốc điều trị HBV hiện nay gồm: interferon alfa, peginterferon alfa, các nucleosid . Trong đó, các chế phẩm của interferon có giá thành rất cao và đa số bệnh nhân không có cơ hội sử dụng. Các thuốc thuộc nhóm nucleosid analogues gồm: lamivudine, adefovir dipivoxil, entecavir, tenofovir và emtricitabine… hiện đang sử dụng chủ yếu và rất có hiệu quả trong điều trị HBV. Tuy nhiên, vấn đề lựa chọn phác đồ điều trị hợp lý và có sơ sở để đảm bảo hiệu quả của quá trình điều trị gặp nhiều khó khăn do thông tin về kháng thuốc của HBV tại Việt Nam được công bố không nhiều. Vì vậy, hiệu quả điều trị còn thấp và làm cho nguy cơ kháng thuốc của HBV ngày càng cao. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm: Nghiên cứu tỷ lệ đột biến gen kháng thuốc của HBV ở đối tượng TCMT và GMD tại Hải Phòng.
Các nhà khoa học đã tách chiết HBV-ADN từ mẫu huyết thanh có kết quả sàng lọc HBsAg dương tính. Khuếch đại vùng gen Pol-RT của HBV nhờ phản ứng Nested PCR và sản phẩm sau PCR được giải trình tự gen trực tiếp. Phân tích đột biến kháng thuốc của HBV bằng chương trình GENETYX và hướng dẫn của Standford University trên cơ sở kết quả giải trình tự vùng gen Pol-RT.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm HBV ở cả hai nhóm đối tượng TCMT và GMD tại Hải Phòng là 10,59%. Trong đó, nhóm TCMT là 10,57% và nhóm GMD là 10,64%. Ba genotýp/subtýp của HBV được phát hiện tại khu vực duyên hải phía Bắc; HBV subtýp B4 có tỷ lệ phân bố phân bố cao nhất (77,61%), tiếp theo là subtýp C1 (19,4%) và subtýp I1 (2,99%). Tỷ lệ đột biến gen kháng thuốc lamivudine trong 67 chủng HBV nghiên cứu là 3,84% và kháng thuốc adefovir và entercavir là 0%. Một chủng HBV genotýp B xuất hiện đột biến kiểu YMDD. Axít amin tại vị trí aa 204 của vùng gen Pol-RT là methionine được thay thế bằng aa isoleucin và bộ tứ aa YMDD (tyrosine-methionine-aspartate-aspartate) chuyển thành YIDD.
Đây là đột biến kháng đa thuốc dòng nucleoside analogue, ngoài kháng lamivudine, chủng virut này còn kháng cả 2 thuốc là telbivudine và telnofovir. Một chủng HBV genotýp B xuất hiện đột biến tại vị trí aa 80 của vùng gen Pol-RT, aa leucine tại vị trí 80 được thay thế bằng aa isoleucin, chủng này chỉ kháng lamivudine đơn độc và theo cơ chế đột biến L80I. Xuất hiện đột biến tự nhiên kiểu YIDD là yếu tố cảnh báo nguy cơ điều trị thất bại với thuốc lamivudine và tenofovir.
http://www.khoahocphothong.com.vn/news/detail/31240/dot-bien-gen-khang-thuoc-cua-hbv-o-nguoi-nghien-ma-tuy-va-gai-mai-dam.html
0 nhận xét:
Đăng nhận xét