Theo RFA (18/05/2015): “Vào lúc 12 giờ kém 15 khuya hôm qua, 18 tháng 5 năm 2015 Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã bị công an cửa khẩu sân bay Tân Sân Nhất tịch thu hộ chiếu và không cho xuất cảnh mà không cho biết lý do cụ thể ông vi phạm điều gì của pháp luật Việt Nam… Giáo sư Huệ Chi cho biết sẽ làm mọi cách để đòi hỏi quyền công dân của ông phải được tôn trọng: “Nhất định là tôi phải làm vì đó là quyền công dân của tôi mà, chứ tôi có mất quyền công dân đâu? Tôi là một công dân tự do trên đất nước mình và tự do trên phạm vi quốc tế. Nhất định tôi phải khiếu nại để biết được lý do vì sao lại sợ hãi một người bình thường. Tôi cũng không nói năng gì mà không cho tôi ra nước ngoài chì vì thăm gia đình con gái tôi mà lại do con gái tôi đưa đi nữa”… Giáo sự Huệ Chi là người cùng khởi xướng thành lập trang web Bauxit.vn rất nổi tiếng”. Nguyễn Huệ Chi cũng là một nhà văn trong danh sách “bị đuổi” khỏi Hội Nhà Văn VN lần này. Cái nguyên nhân ông ta “bị đuổi” và cái việc bị cấm xuất cảnh lần này có lẽ tôi là người vạch ra đầu tiên. Tôi từng viết những tội như giết người, cướp của ai cũng biết nhưng “tội phạm tri thức” thì nhận biết không phải dễ. Bởi họ dùng cơ sở lý luận, cơ sở khoa học để chống phá nhà nước. Như ông Huệ Chi từng tuyên bố: “Học thuyết tương đối của Einstein rọi sáng cho cả một thời đại mới: thời đại “giải lý tính”” để rút ra “Ý nghĩa của cuộc đấu tranh phát huy tương đối luận”, phủ nhận thành quả cách mạng: “Chúng ta đã từng rút được không ít bài học thấm thía về sự cả tin vào ý chí của một thời vốn được mệnh danh là “thời đại cách mạng lay trời chuyển đất…khi ta mơ ước … về lý tưởng tối hậu của cuộc đấu tranh giai cấp”. Vậy muốn biết ông Huệ Chi sai phạm như thế nào thì phải hiểu cả khoa học, triết học và lịch sử. Đúng theo triết lý “duyên khởi” của Đạo Phật, không phải tự nhiên mà tôi quan tâm đến những sai phạm của ông Chi mà khởi đầu là do ông Nguyễn Hòa biết tôi vừa biết khoa học tự nhiên vừa viết phê bình nên đã nhờ tôi “đánh” cuốn sách của cụ Cao Xuân Huy mà ông Huệ Chi là người chủ biên, xuất bản. Thú vị là có một ông tướng công an đã email cảm ơn tôi vì qua những bài như thế mà ông biết được loại tội phạm đặc biệt. Ông còn mua ba cuốn sách của tôi cho ông và hai con trai, nhờ tôi viết tặng hai con trai theo ý của ông để mong lý tưởng của các cháu kiên định hơn. Lĩnh vực chống tội phạm thời gian qua tôi thấy chưa được “công bằng” lắm, người có chút tên, chút tuổi như Nguyên Ngọc, Huệ Chi… chẳng hạn dường như chưa được “quan tâm” đúng mức, làm cho họ ảo tưởng là càng “quậy” thì càng “vinh quang” nên họ lại càng “quậy” như ở chỗ không người vậy! Ngược lại nếu nghiêm khắc các vị sẽ “co vòi” ngay, như trường hợp Nguyễn Quang Lập vừa rồi chẳng hạn. Nên việc cấm “xuất khẩu” Huệ Chi lần này tôi thấy thật cần thiết. Như đã trình bầy, nhân vụ 20 nhà văn “bị đuổi”, tôi sẽ đăng lại một loạt bài về họ. Lẽ ra đăng thêm vài bài về Nguyên Ngọc nhưng thấy tên Huệ Chi đang hot nên tôi cho đăng ngay vài bài về ông này. 20-5-2015 ĐÔNG LA |
ĐÔNG LA
NGUYỄN HUỆ CHI “TÀI HOA VÀ UYÊN BÁC”?
Hội Nhà Văn Hà Nội đã rất sai trái khi trao giải tôn vinh một tác phẩm “đạo văn” của cả Vua (Trần Nhân Tông), “cướp chữ” của cả thầy, “đoạn thai, hoán cốt” công trình của cả trò. Đó là tác phẩm của ông Huệ Chi. Ấy vậy mà người ta còn ca ngợi Huệ Chi là“TÀI HOA VÀ UYÊN BÁC” nữa!!!
Dưới đây là bài viết của tôi để bạn đọc thấy ông Huệ Chi thực chất có “tài” gì? Bài được đăng tiếp liên tục trên báo Văn Nghệ TPHCM số 287, 16-1-2014:
Cuốn “Văn học cổ cận Việt Nam từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật” của Nguyễn Huệ Chi (Nhà xuất bản Giáo dục) mới được Hội Nhà Văn Hà Nội trao giải thưởng “Thành tựu”. Khi viết về nó, GS Vũ Khiêu đã ca ngợi GS Nguyễn Huệ Chi là “một nhà nghiên cứu văn học tài hoa, uyên bác” (phebinhvanhoc.com.vn, 18 - 05 – 2013). Trước đó TS Đặng Thị Hảo cũng ca ngợi hết lời GS Nguyễn Huệ Chi trong bài: “Nguyễn Huệ Chi và những dấu ấn khoa học sau hơn nửa thế kỷ nghiên cứu văn học cổ cận đại Việt Nam” (phebinhvanhoc.com.vn, 10 - 5 - 2013). Như trước đây, ông Huệ Chi có thể yên tâm mà hưởng vinh quang, nhưng ở thời mà trình độ xã hội và tinh thần dân chủ đều đã được nâng cao hơn ngày xưa rất nhiều, thì không có ý kiến của bất kỳ ai có thể là chân lý được. Ai cũng có thể đúng, ai cũng có thể sai, dù đó là GS, Anh hùng Vũ Khiêu, người từng được ca ngợi là một “nhà văn hóa”, “một nhà triết học”. Gọi GS Vũ Khiêu là một nhà triết học tôi cũng hơi e ngại vì không biết ông đã có những phát minh tư tưởng triết học gì? Còn không, ông cũng chỉ là một học giả có nghiên cứu triết như hầu hết các “nhà triết học” của Việt Nam mà thôi. Mà việc nghiên cứu triết học của ông GS cũng cần phải xem xét thận trọng, vì ngay trong bài ca ngợi ông Huệ Chi này, những ý của GS Vũ Khiêu về triết học đã sai mất tiêu rồi!
Còn chuyện ông Nguyễn Huệ Chi có đúng là “tài hoa, uyên bác” như sự ca ngợi của GS Vũ Khiêu không ta hãy thử phân tích xem.
Trước nay, tôi đã viết khá nhiều về ông Huệ Chi, chủ yếu bàn về khoa học, triết học và chính trị xã hội, còn chuyên môn Hán Nôm của ông thì quả thật tôi chưa quan tâm. Dù vậy, tôi vẫn biết có ba người từng phê phán ông Nguyễn Huệ Chi về lĩnh vực này, đó là Nhà phê bình Nguyễn Hòa, GS Nguyễn Đình Chú và GS Mai Quốc Liên.
Gần đây, trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việ Nam, số 41, 12-10-2013, đã đăng bài của Nguyễn Hòa: “Đôi điều gởi tới GS Nguyễn Huệ Chi”. Về ý kiến cho việc phát hiện ra Trần Tung của Huệ Chi là một khám phá lớn, Nguyễn Hòa đã dẫn đầy đủ chứng cớ và có những lý lẽ xác đáng để “thách đố” Huệ Chi trả lời câu hỏi của mình: “GS Nguyễn Huệ Chi “đạo văn” hay “phóng tác” từ tác phẩm của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi, không nói rõ nguồn gốc…?” Nguyễn Hòa đã đưa ra chứng cớ bằng hai đoạn văn, bài viết về Trần Tung của ông Huệ Chi và một đoạn trong Thượng sĩ hành trạng của Vua Trần Nhân Tông, rồi so sánh và thấy là: “tương tự”, ông Huệ Chi chỉ “thêm mắm thêm muối”. Tôi đã coi kỹ hai đoạn văn và thấy đúng như vậy. Trong Thượng sĩ hành trạng trên thientongvietnam.net, Vua Trần Nhân Tông xưng là “tôi” (theo tôi nên dịch là “ta” hoặc “trẫm” có lẽ hợp với giọng văn cổ hơn); còn bài Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý-Trần(trong cuốn được giải của ông Huệ Chi) thì ông Huệ Chi biến Vua thành nhân vật, nghĩa là ông Huệ Chi ngang nhiên thế chỗ tác giả của Vua. Một người dám thay tên Vua như vậy quả là gan cóc tía. Thảo nào đầu tháng 1 – 2012, Huệ Chi cũng cho Đảng “không là gì” khi trả lời phỏng vấn của BBC:
“Đảng đối với chúng tôi không là cái gì cả… Vậy tôi không quan niệm rằng Đảng ở đây có vai trò gì hết cả. Mặc dù Đảng là quyền lực tối cao nhất…”.
Về vấn đề “diện mục Tuệ Trung”, Nguyễn Hòa viết: “Huy động rất nhiều tài liệu… để chứng minh Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Quốc Tung chứ không phải Trần Quốc Tảng, xem ra GS Nguyễn Huệ Chi… đã hì hục phá khóa một cánh cửa mà Nguyễn Lang đã mở sẵn từ 4 năm trước”. Còn bài của ông Huệ Chi viết về “truyện thơ lục bát” của chí sĩ Phan Châu Trinh in trên tạp chí Thời đại mới (11-2006) của Trần Hữu Dũng (một ông “Việt Cộng con” nay do “đột biến gen” lại theo đuôi đi chống Cộng rồi) thì Nguyễn Hòa trích trong bài viết của GS Mai Quốc Liên Vu cáo chính trị mập mờ học thuậtcho Huệ Chi đã “đoạt thai, hoán cốt”, tức đã “rút ruột” luận án tiến sĩ của bà Trần Hải Yến, tức tác phẩm đó thực chất là “của em” Hải Yến chứ không phải “của thầy” Huệ Chi! Ông Huệ Chi phải thừa nhận chuyện này qua hành động gỡ bỏ bài báo mà không dám đăng lại ở đâu nữa.
Giống y như việc “thế chỗ” tác giả của Vua Trần Nhân Tông, “rút ruột” văn của “em” Hải Yến, GS Mai Quốc Liên cho biết: “Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi ký luôn tên mình, xóa mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy”. Và tệ hơn nữa là, khi chế biến bản dịch của người thành bản dịch của mình, GS Liên cho ông Huệ Chi còn biến “lợn lành thành lợn què”:
“Hai câu cuối:
- Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ Lục, Sđd)
- Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý – Trần, Sđd, tr.250) (Huệ Chi dịch-)
Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn, nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt…”
Với cụ Nam Trân mà Huệ Chi là học trò ở lớp Đại học Hán học, GS Mai Quốc Liên cũng cho biết: “…bản dịch Ngục trung nhật ký của Nam Trân (1907-1967)… ông NHC đem ra “duyệt” lại bản dịch của thầy và bậc tiền bối đó… ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình vào! Thí dụ thì vô khối. Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại nguyên văn, đến câu 4, Nam Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần
rồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác, xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói thế, viết thế cả. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng một tâm hồn thơ…, thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán – Nôm Sau Đại học (1972-1975) cũng bị NHC cướp chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ chữa có 2 chữ: Vô ngần thành dữ dằn … nhưng ông lại ký tên mà là ký trước tên như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao?”
Bài viết của Nguyễn Hòa trên Báo Văn Nghệ cũng nhắc đến việc GS Nguyễn Đình Chú cho biết sự thực là nhạc phụ của ông là cụ Nguyễn Đức Vân mới chính là có “vai trò chủ công” đối với “Thơ văn Lý – Trần” mà qua tay Huệ Chi “bạn đọc hôm nay dễ thường không biết”. Cụ thể trong Lời mở đầu sách Thơ văn Lý – Trần tập I xuất bản năm 1977, ông Huệ Chi với tư cách trưởng nhóm kiêm chủ biên đã ghi rõ từ năm 1960, tổ Hán Nôm của Viện với cụ Nguyễn Ðức Vân, Ðào Phương Bình và cán bộ trong tổ đã trực tiếp tiến hành công việc: “đến năm 1965 thì việc sưu tầm cũng như phiên dịch bước đầu đã hoàn thành”. Nhưng “sau ngày cụ Vân qua đời” thì “bộ sách Thơ văn Lý – Trần 3 tập lần lượt ra đời”, tên tuổi của cụ Nguyễn Đức Vân dần biến mất!
GS Nguyễn Đình Chú viết: “Trong bài viết “Nguyễn Ðức Vân: một người xứ Nghệ”, tôi cũng nói đến thái độ của hai người con trai của cụ là nhà văn Nguyễn Ðức Ðàn và nhà thơ Anh Ngọc đều có biết chuyện nhưng chỉ nhếch mép cười khẩy và nói với nhau: “Thôi, vua nước Sở mất cung, người nước Sở được””; “Còn tôi, con rể có điều kiện biết chuyện nhiều hơn thì cũng chịu im mặc dù đã bị một vài người bạn chê trách, thậm chí như là mắng rằng hèn, nhát”; “Nhưng không ngờ, tôi đã nhận được hai cú điện thoại của ông Huệ Chi và giữa hai bên đã có sự đối đáp với nhau. Và rồi tôi cũng nghĩ là mọi chuyện sẽ dừng lại ở hai cuộc điện thoại này mà thôi.
Nhưng lại không ngờ, tôi được nghe nói lại là ông Huệ Chi đã nói với một vài người rằng giữa ông và tôi đã có sự ổn thoả với nhau. Thậm chí, lại còn nói với vài người rằng: ông Chú đã xin lỗi mình (?!)”
Thế là cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng, GS Nguyễn Đình Chú: “… buộc tôi phải nói thêm với ông (NHC) và cũng là với bạn đọc trong và ngoài nước. Nếu không tôi sẽ bị coi là người không biết điều, cố vơ quàng vơ xiên về cho ông bố vợ”. Trong 2 cú điện thoại mà ông “đối đáp” với ông Huệ Chi, GS Nguyễn Đình Chú cho biết có một câu mà Huệ Chi buộc phải xin lỗi ông:
“Nguyễn Ðình Chú: … Tại sao năm 1977, trong “Lời nói đầu” sách Thơ văn Lý – Trần tập I, ông đã viết: Công trình “sưu tầm cũng như dịch thuật” các đồng chí Nguyễn Ðức Vân và Ðào Phương Bình trực tiếp tiến hành đến năm 1965 đã bước đầu hoàn thành, mà đến năm 2007 vừa qua khi cụ Vân đã qua đời 33 năm, trong đề cương làm sách Tuyển tập Thơ văn Lý – Trần ở Nhà xuất bản Hà Nội, ông lại viết là: “Việc sưu tầm nghiên cứu được đặt ra từ năm 1968?
Nguyễn Huệ Chi: Tôi sơ suất – xin lỗi”.
Còn chuyện thay tên, đổi chủ của ông Huệ Chi, GS Nguyễn Đình Chú cũng viết:
“… tôi và cả nhà tôi đã đến xin phôtô tất cả những gì mà cụ Vân đã dịch ở Viện để lưu niệm cho con cháu lâu dài thì tình hình là thế này. Những gì do thư viện bảo quản thì cơ bản còn đủ cả. Còn phần do Ban cổ cận của ông (NHC) bảo quản thì chỉ còn lại rất ít. Ðặc biệt, trong đó có một mẩu cụ Vân đã dịch nghĩa, dịch thơ và khảo đính mà ông đã pha chế thì chẳng ra gì, thậm chí còn là hao hụt, rồi đề thêm tên mình cùng cụ Vân”.
Cuối cùng, ông kết luận: “Như thế là tôi đã đưa đến quý vị một câu chuyện buồn mà với tôi cũng chẳng vui vì nó là chuyện nhếch nhác, lẩm cẩm giữa trần gian… Chỉ mong quý vị trong suy nghĩ vẫn giữ cho sự công bằng. Công bằng với người bị mất công bằng, nhưng cũng công bằng với cả người làm mất công bằng…”.
Như vậy, cái việc GS Vũ Khiêu bảo ông Huệ Chi là “tài hoa” xem chừng không phải mà là “tồi hoa” thì đúng hơn. Tức là khả năng làm việc tồi một cách khéo léo. Còn bà Đặng Thị Hảo viết: “ … bộ Thơ văn Lý – Trần – một công trình gắn với cả sự nghiệp sưu tầm, khảo cứu, dịch thuật cổ văn của ông, khẳng định tên tuổi Nguyễn Huệ Chi, là niềm tự hào của ngành nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật văn học cổ Việt Nam” xem ra nên viết ngược lại, là nỗi “hổ thẹn” thì đúng với thực tế hơn!
xxx
Còn cái vế “uyên bác” và “những tìm tòi có tính đột phá” mà GS Vũ Khiêu khen ông Huệ Chi? Và Đặng Thị Hảo viết: “Nguyễn Huệ Chi là một nhà khoa học vững cổ thông kim”?
Một người uyên bác phải hiểu biết rộng, cao, sâu hơn người cùng tầng lớp mình. Thực tế Huệ Chi quả có tham vọng “đột phá” vào những vấn đề mà giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và văn học cổ nói riêng không dám nghĩ đến. Đó là việc nghiên cứu, bàn luận những vấn đề mà ông ta tưởng tượng ra mối liên quan giữa tư tưởng cổ phương Đông với khoa học tự nhiên. Cụ thể như GS Vũ Khiêu viết Huệ Chi đã: “sưu tầm, tập hợp, lý giải và chú giải bộ sách quan trọng đầu tiên và duy nhất của cố GS. Cao Xuân Huy, một “người thầy, nhà tư tưởng” của anh. Đó là cuốn Tư tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếu (1995)”; và như Đặng Thị Hảo viết, ông Huệ Chi đã: “viết 70 trang dẫn luận, nhằm khơi mở cho người đọc dễ dàng đến với những phát hiện, những triết thuyết cao siêu, thâm thúy, không dễ hiểu chút nào về tư tưởng triết học phương Đông của Cao Xuân Huy”.
Về vấn đề này, tôi đã đọc những bài phản bác Nguyễn Huệ Chi của GS Trần Thanh Đạm đã viết hình như trên Kiến thức ngày nay và Đỗ Kiên Cường đã viết hình như trên Văn nghệ Quân đội; còn tôi thì cũng đã viết và in trong cuốn Biên độ của trí tưởng tượng (Nxb. Văn Học). Gần đây có internet, tôi có điều kiện viết kỹ hơn trên những trang cá nhân của mình, và trong những ngày hôm nay, Báo văn nghệ TPHCM cũng mới in hai bài của tôi về vấn đề nêu trên.
Nếu GS Vũ Khiêu và bà Đặng Thị Hảo có đọc và hiểu được vấn đề trong các bài viết đó thì sẽ không ca ngợi ông Huệ Chi như thế. Vì những tư tưởng của cụ Cao Xuân Huy thực chất là phản triết học và phản khoa học vì cụ đã cho những cặp phạm trù cơ bản của Triết học Mác như Tâm-Vật; Không gian-Thời gian; Nhân-Quả là “hư cấu”; và Einstein là “Sai lầm cơ bản trong tư tưởng logic”! Vì thế việc làm của ông Huệ Chi không phải vinh danh thầy mà như bài trên Văn nghệ TPHCM số 282 (28-11-2013), tôi đã cho ông Huệ Chi là đã “vạch áo thầy cho thiên hạ xem lưng”!
Như vậy ông Huệ Chi không phải “uyên bác” như GS Vũ Khiêu viết, và cũng không “vững cổ thông kim” như Đặng Thị Hảo viết; mà tri thức của ông thực sự lõm bõm, ông ta “yếu cổ mờ kim” thì đúng hơn. Còn cái tính “đột phá” của ông thì chỉ là những ảo tưởng và tham vọng, nên sự “đột phá” đó đã biến thành chuyện húc đầu vào đá. Trong bài “Nhà Hán Nôm Huệ Chi nghiên cứu vật lý” trên Báo Văn nghệ TPHCM, số mới nhất 286, tôi đã viết về chuyện ông Huệ Chi từng đọc bài tham luận Tư duy phương Đông nhìn dưới ánh sáng học thuyết Einstein trong một cuộc “Hội thảo Khoa học” ở Trường Đại học Phan Châu Trinh (Quảng Nam). Thật ghê gớm, bởi muốn làm được vậy người ta đúng là phải “thông kim bác cổ”. Có điều khi đọc xong, tôi đã phải đặt câu hỏi là “tại sao một cuộc Hội thảo được tổ chức bởi một tạp chí của Bộ Khoa học và một trường đại học, với ban cố vấn và ban lãnh đạo là những nhà khoa học và nhà trí thức hàng đầu VN, lại cho tham luận một “công trình” phản khoa học, phản triết học, phản thực tiễn đến thế?!” Vì ông Huệ Chi hoàn toàn không hiểu khoa học tự nhiên nói chung và Thuyết Tương đối nói riêng. Cả bài tham luận của ông là một mớ những mâu thuẫn và những gán ghép khiên cưỡng, lầm lẫn.
Xin nhắc lại tí, trong cái “công trình” nghiên cứu buồn cười của ông Huệ Chi, ông ấy thấy trong xe đang chạy có một con ruồi bay thong dong, ông cho rằng tại nó nhỏ, nên thuyết Tương đối có tác động, còn ông ta to sẽ không chịu tác động, nên nếu cũng lơ lửng được, ông ta sẽ bị đẩy về sau ngay. Tôi đã bảo ông ta là không phải đâu, con ruồi bay được là do lực quán tính chứ không phải do tương đối tương điếc gì hết, mà lực quán tính tác động mọi vật như nhau, cả khi trong xe nếu có con voi lơ lửng được thì nó cũng như con ruồi, sẽ không bị đẩy về sau đâu. Quy luật vật lý nó thế chứ hoàn toàn không phải là tôi tự nghĩ ra!
***
Tôi vốn làm nghiên cứu khoa học tự nhiên tại một viện dược, được nhà thơ Anh Thơ phát hiện và giới thiệu đến Chế Lan Viên. Cảm động vì sự quý mến và quan tâm của Nhà thơ lớn Chế Lan Viên, ông đã đề nghị trao giải thơ cho tôi trong một cuộc thi của Hội Nhà Văn TPHCM 1986, rồi đứng tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà Văn TPHCM, tôi đã dấn thân vào con đường văn chương là vì thế chứ không vì cái gì khác. Tôi không biết GS Nguyễn Huệ Chi là ai. Một hôm tôi quá bất ngờ khi nhận được email của ông Triệu Xuân. Nội dung email chính là “thư của ông Huệ Chi” gởi nhiều người, “tung truyền đơn trên mạng”, trong đó có Triệu Xuân. Số là tôi có viết bài “Các Mác-một tình yêu bao la”, tôi muốn viết về chuyện người ta đã hiểu sai Mác là chính chứ cũng không phải ca ngợi gì. Gửi báo trong nước không được đăng, tôi mới gởi cho trang mạng talawas. Sau khi được đăng, không ngờ nhận được thư của Huệ Chi. Ông ấy cho là tôi muốn thế thân cho Mai Quốc Liên và Trần Mạnh Hảo, vì hai ông này hết thời rồi. Phải với giọng điệu như tôi thì may ra mới giúp được Đảng tiếp tục “thực hiện canh bạc bịp” với thế hệ trẻ ngày nay. Quả thực, đây đúng là một sự vu cáo, vì tôi viết độc lập, chỉ với tư cách một nhà nghiên cứu khách quan chứ không vì cái gì hết. Mà tôi cũng không là một đảng viên và cũng đã bỏ công chức từ tận năm 1994 rồi!
Thật trớ trêu, một người hưởng nhiều danh lợi của chế độ lại đi chống chế độ. Còn tôi không được gì nhưng lại đi bảo vệ như một “văn nô”. Đơn giản là vì tôi thấy, chế độ hiện thời dù còn nhiều tệ nạn, còn nhiều yếu kém, nhưng “vẫn có bia uống đều đều”, còn chế độ mà rơi vào tay những người có tâm và tài như ông Huệ Chi thì đến nước lã cũng không có mà uống. Bởi với trí tuệ của họ như đã phân tích, thì đôi cánh tư tưởng của họ chỉ là đôi cánh ruồi chứ không phải là đôi cánh vũ trụ đâu!
6-1-2014
ĐÔNG LA
0 nhận xét:
Đăng nhận xét