HỒI ỨC THÁNG TƯ- BI HÙNG "THẦN LỬA" 707



Đã 39 năm trôi qua song  hình ảnh cái ban thờ và năm ngôi mộ gió bên cạnh chiếc xe tăng cháy đen trước cổng Trường Võ bị Thủ Đức vẫn ám ảnh tôi mỗi khi tháng Tư về.

     Trung tuần tháng 5 năm 1975 tôi được đại đội giao cho lái 1 chiếc M48 chiến lợi phẩm lên Bộ tư lệnh quân đoàn 2 lúc đó đang đóng tại cơ sở của Trường võ bị Thủ Đức để triển lãm.          
Mặc dù không có cán bộ chỉ huy đi cùng song vị trí của Trường võ bị Thủ Đức thì tôi vẫn nhớ như in. Nó nằm ngay bên trái đường, cách xa lộ chừng vài chục mét. Sáng 30.4 chúng tôi qua đây còn bị địch bắn vào đội hình nhưng được lệnh bỏ qua, cứ nhằm thẳng Sài Gòn mà tiến. Tuy nhiên, ngồi trong buồng lái tôi vẫn liếc thấy dọc theo hàng rào là hai khẩu hiệu chữ rất to. Ở đầu phía bắc là mấy chữ: “LÁ NGỌC CÀNH VÀNG”, tôi nghĩ bụng chắc trường này chỉ tuyển con em “cán bộ”- con quan chức chính quyền SG hoặc quân lực VNCH vào học mà thôi; còn ở đầu phía nam là mấy chữ “CƯ AN TƯ NGUY”, tôi đoán đó là khẩu hiệu khuyếch trương vị thế của trường đại khái là “ở thì yên lành, có nguy thì đến cứu giúp”. Đi hết chiều dài hàng rào là đến ngã ba Tăng Nhơn Phú. Tôi đoán cổng chính của nó quanh quanh chỗ cái ngã ba này.


Quả nhiên, đến ngã ba Tăng Nhơn Phú tôi rẽ trái vào một đoạn thì thấy cái cổng trường to lừng lững ngay bên tay trái trông rất oai phong. Tuy nhiên, cái thu hút sự chú ý của tôi nhiều hơn lại là xác một chiếc K63-85 cháy đen thui nằm trước cổng. Chiếc xe nằm gần như đối diện với cổng chính của trường, cách cổng chừng vài chục mét, đầu xe hướng chênh chếch về phía xa lộ, một bên xích đứt rời cuộn lại thành một đống phía sau. Ở sườn xe bên phải, ngay đoạn buồng chiến đấu là một lỗ thủng to tướng đút lọt chiếc mũ cối. Các mảnh thép xung quanh lỗ thủng nham nhở, cong queo… Tôi tự nhủ: “Có lẽ là một quả đạn nổ cỡ lớn chứ không phải đạn chống tăng. Vết đạn chống tăng nó gọn chứ không như thế này. Đây là xe bơi nước, thành xe của nó mỏng chỉ độ hơn 10 ly thép nên đạn nổ cỡ lớn là đủ phá được rồi”. Tôi quay lại phía cổng trường thì phát hiện ở phía bên trái (từ ngoài nhìn vào) có một khẩu “Vua chiến trường” 175 mm. Nó nằm ở chỗ hơi thấp và nòng cũng hạ thấp, gần như nằm ngang. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Không lẽ chính khẩu pháo kia đã bắn hạ chiếc xe này”. 



Tôi đi vòng sang phía bên kia chiếc xe, mắt vẫn không rời ngôi sao quân hiệu và ba chữ số vẫn còn hiện lên trắng mờ trong cái nền đen kịt. Đó là số 707. Chợt tôi sững lại: ngay cạnh chiếc xe, chỗ ngang với buồng chiến đấu là một cái ban thờ.

Vâng! Đó đúng là một cái ban thờ- kiểu ban thờ thiên mà chúng tôi vẫn gặp từ vùng Quảng Trị trở vào. Một cái chân bằng gỗ tròn to cỡ bắp đùi chôn sâu xuống đất. Trên đỉnh của nó là một mảnh gỗ vuông vắn được be lên 3 phía. Có lẽ người làm ra nó khá vội vàng vì không thấy sơn màu gì cả mà vẫn để gỗ mộc. Trên đó là một cái bát hương làm bằng lon sữa bò lơ thơ vài cái chân hương. Dưới chân ban thờ là mấy mô đất vun cao trông như mấy nấm mộ cũng lác đác vài cái chân hương. Nhìn tất cả còn khá mới nên tôi nghĩ: “Có lẽ cái này được lập ra là để thờ các chiến sĩ trong xe này đây. Mấy nấm đất kia chắc tượng trưng cho mấy ngôi mộ thì phải”. Nhưng rồi tôi lập tức băn khoăn tự hỏi: “Vậy ai là người lập ban thờ và thắp hương cho các đồng đội tôi?”. Rồi cũng lại tôi tự trả lời: “Chắc là dân sở tại ở đây thôi chứ bộ đội ta sẽ không làm thế này”.



Hỏi thăm dân chúng gần đó tôi được biết ông già tên Viên là người đã lập cái ban thờ và thường xuyên hương khói ở đấy. Tôi tìm đến nhà ông và câu chuyện của ông già Viên ngày đó đã ám ảnh tôi suốt cuộc đời:
- Từ mấy ngày trước đó thấy các ông sĩ quan, binh sĩ trong Trường Võ bị ra chơi nói chuyện chúng tôi cũng biết tình hình Việt Nam cộng hòa nguy đến nơi rồi.  Quân trường mấy bữa rày đã điều hết quân lính ra Long Thành chống cự với các chú rồi nên cũng chẳng còn mấy quân lính nữa. Nhưng không ngờ các chú đánh nhanh quá. Sáng sớm hôm 30 tháng Tư, nghe ngoài xa lộ xe chạy rần rần. Tôi chạy ra ngó thấy nhiều xe tăng lắm. Rồi nghe tiếng súng từ trong quân trường bắn ra, súng ngoài xa lộ bắn vào dữ dội. Biết là các chú đánh tới nơi tôi hối bà xã cùng mấy bà bên cạnh kéo sắp nhỏ chạy tuốt vô trong rẫy nằm để tránh tên rơi đạn lạc. Còn mình tôi ở lại trông nhà với lại theo dõi tình hình xem sao. Một chặp sau thì thấy các ổng- ông hất cằm về phía chiếc xe cháy- xuất hiện. Các ổng vừa chạy vừa bắn vào phía cổng quân trường một hồi rồi lao tới húc tung cổng xông thẳng vào trỏng. Tôi đứng đây ngó vào thấy các ổng vừa chạy dọc con đường chính của quân trường vừa bắn sang hai bên. Bắn dữ lắm! Đạn nối thành dây đỏ lừ. Một chặp sau nữa thì các ổng chạy trở ra, lúc này không bắn nữa. Tôi đoán chắc các ổng đã diệt hết quân lính ở trỏng và bây giờ muốn trở ra xa lộ. Lúc các ổng đang quay ra hướng xa lộ thì một bên sên (xích) xe buột ra. Các ổng vẫn chạy thêm một đoạn nữa rồi mới chịu dừng lại đúng ở chỗ bây giờ đó. Có lẽ các ổng định dừng lại để sửa chữa cái dải sên đó thì phải vì tôi thấy cái nắp trên nóc đã mở ra. Đúng lúc đó thì một tiếng nổ dữ dội vang lên. Tôi chỉ thấy nhoáng một cái và ù hết cả hai tai. Vài giây sau thì các ổng bốc lửa đùng đùng. Lửa cháy mỗi lúc một to. Khói đen mù mịt. Thỉnh thoảng lại bùng lên một cái. Tôi sợ lắm nhưng vẫn tiến lại gần. Biết đâu có ông nào bị thương mà nhảy ra thì mình còn có thể cứu giúp được. Lính bên nào thì cũng là người mình cả thôi, phải không chú? Tôi nép sát vào hiên nhà rồi chăm chú nhìn vào chiếc xe xem liệu có ai chui ra không. Nhưng không có ai cả, chỉ thấy khói lửa mịt mù. Đúng lúc đó tôi nghe tiếng người cười nói rổn rảng ở phía đằng cổng quân trường. Tôi quay ra nhìn thì thấy ông trung tá Lâm, sếp phó Trường Võ bị cùng mấy ông lính nữa đang chạy từ phía khẩu pháo to ở đằng kia lại. Họ vừa chạy vừa cười nói có vẻ phớn phở lắm. Tôi đoán chừng có lẽ chính họ vừa bắn hạ được các ông này nên chạy ra xem hay định bắt tù binh nữa không chừng. Sợ các ổng nhìn thấy mình tui vội vàng nép hẳn vào trong. Nhưng đúng vào lúc đó, đúng vào lúc ông Lâm và mấy ông lính nghênh ngang nhứt, hào hứng nhứt… thì giữa đám khói lửa mù mịt đó một ông bất ngờ đứng dạy. Người ổng cũng đang cháy bùng bùng. Tôi đoán chừng ổng sẽ nhảy xuống. Nhưng không phải! Tay ổng cắp khẩu súng lia một loạt dài rồi mới đổ gục xuống tại chỗ. Tôi sợ run hết cả chân tay. Đúng là từ hồi nhỏ đến giờ mới chứng kiến cảnh tượng ấy. Ổng như là “Thần Lửa” ấy. Đến lúc tôi định thần nhìn ra thì thấy ông trung tá Lâm với mấy người lính cộng hòa đã trúng đạn chết cả… Từ hôm ấy tôi vẫn hay nằm mơ thấy Thần Lửa hiện về đấy. Ổng không nói mà chỉ cười thôi. Chú đã bao giờ chứng kiến cảnh ấy chưa? Chú thấy tôi gọi ổng là Thần Lửa có đúng không? Các ổng sống khôn thác thiêng như vậy nên tôi đã lập cái ban thờ này để hương khói cho các ổng.



Lục tìm trong các cuốn Lịch sử Binh chủng TTG, Lịch sử của Lữ đoàn xe tăng 203, Trung đoàn xe tăng 574… phần ghi về sự kiện này hết sức ngắn gọn và vắn tắt. Đại khái là: “Khoảng 07.30 ngày 30.4.1975, khi đội hình binh đoàn thọc sâu đến Thủ Đức thì bị bọn địch ở Trường Võ bị bắn ra ngăn chặn gây thương vong cho một số chiến sĩ. Xe tăng 707 do Trần Quang Nhàn chỉ huy được lệnh cơ động vào trường đánh địch để bảo vệ bên sườn cho đội hình…”. Cuốn sử của Trung đoàn 574 mới xuất bản năm 2000 thì nói rõ hơn một chút song cũng chỉ cho biết là cả xe đã hy sinh anh dũng và xe đã được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Nói chung là thông tin về kíp xe 707 trên các tài liệu chính thống chỉ vắn tắt như thế và vô cùng ít ỏi.
Gặp gỡ các đồng đội ở Lữ đoàn 203 tôi đã tìm ra danh tính cũng như quê quán của 5 chiến sĩ trên xe 707 ngày 30.4.1975 là:
     - Trưởng xe: Trần Quang Nhàn. Sinh năm 1954. Quê quán: Lực Điền, Yên Bình, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú.
          - Pháo thủ: Nguyễn Văn Hữu- Sinh năm 1954. Quê quán: Hoà Xá, Đồng Phú, Chương Mỹ, Hà Tây.
     - Lái xe: Phạm Duy Hòa- Sinh năm 1950. Quê quán: Triều Khê, Đội  Bình, Ứng Hòa, Hà Tây.
     - Pháo hai: Ngô Văn Nghị: Sinh tháng 5.1953. Quê: Tông Thượng, Quang Trung, Kinh Môn, Hải Dương.
     - Y tá đi cùng: Trần Trọng Đông- Sinh năm 1954. Quê quán: Xóm: Đông, Đông Sơn, Chương Mỹ, Hà Tây.
Người mà ông già Viên nhìn thấy vùng dậy diệt địch khi lửa cháy bùng bùng trên thân mình có lẽ là lái xe Phạm Duy Hòa.
Không chỉ lập công trong trận đánh này mà xe 707 đã lập công xuất sắc trong nhiều trận đánh khi còn nằm trong đội hình Trung đoàn xe tăng 574, đặc biệt là trong chiến dịch Huế- Đà Nẵng. Kết thúc chiến dịch này, xe đã được đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất.

Được biết Lữ đoàn 203 xe tăng đang làm thủ tục đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho xe 707. Song dù các anh có được tuyên dương hay không thì các anh vẫn mãi mãi là những người anh hùng trong lòng chúng tôi- những người lính của Lữ đoàn xe tăng 203, là vị “Thần Lửa” uy dũng trong lòng bà con Tăng Nhơn Phú.
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét