ĐĂK NÔNG GIỮA 2 LẦN...



Với những người Việt có gốc gác ở phía Nam, số phận trớ trêu thế là thường. Ai mà chả trên bàn thờ có ảnh của 2 màu áo lính, và những bà mẹ, thắp hương cho con, họ có phân biệt áo nào với áo nào, tất cả là con của mẹ. Như tôi, ba tập kết, nhưng các em con chú, cô, cậu tôi, họ ở lại. Nhà tưởng như 2 chiến tuyến, nhưng gặp nhau, chỉ có yêu thương, sẻ chia, bù đắp…
--------


          Trong năm tỉnh Tây Nguyên thì tôi ít biết về Đắk Nông nhất.


          Đấy là một tỉnh rất mới, tách ra từ Đăk Lăk, mà cái phần cắt ra ấy, nó lại cứ mịt mù thăm thẳm thế nào ấy, nghe tên không thấy quen, nhìn đường không thấy nhớ, ngửi gió chả thấy mùi mà nắng thì cứ nhợt nhạt như ánh sáng dưới đường hầm, thế thì tức là nó cứ thẳng băng trong lô nhô ký ức của mình. Cách đây hơn chục năm đã có lần tôi ghé Gia Nghĩa ngủ một đêm để dự đại hội thành lập hội Văn học Nghệ thuật Đăk Nông. Gia Nghĩa là thị xã tỉnh lỵ Đăk Nông, hồi ấy buồn và vắng thê thảm. Nhà lơ vơ hoe hoắt trên mấy con đường nhấp nhô đầy đất đỏ mùa mưa. Hồi ấy Internet Wifi chưa có, Dcom 2G cũng chưa chứ đừng nói 3, các khách sạn thường kéo dây vào từng bàn của phòng ở khách sạn. Cái khách sạn tôi ở thuộc loại cũng lớn, dây chưa kéo vào phòng mà để lơ lửng ở ngay gầm cầu thang, khách muốn dùng thì ôm laptop ra đấy cắm đầu rắc vào rồi mà lom khom sử dụng. Cần chuyển cái ảnh phải đợi cả tiếng vì phải… chờ nhau… Thị xã được quy hoạch trên mấy quả đồi, địa thế rất đẹp nhưng lúc này đang rất thưa vắng, phố chưa ra phố, đường chưa thành đường…

          Lần này sang Đăk Nông thì đã khác rất nhiều. Thị xã đã định hình, rất hiện đại mà lại cổ kính, mang đậm bản sắc Tây Nguyên.

          Nhưng cái quan trọng là, tôi có khá nhiều người quen, và phát hiện là mình có khá nhiều bà con đang sinh sống ở đây…

          …Cách đây chừng 30 năm, một trưa hè Huế, tôi khi ấy đang là sinh viên ở trong ký túc xá 27 Nguyễn Huệ Huế, ra bến đò Đông Ba đón rồi đưa vợ chồng chú em con cô ruột ra ga lên tàu chợ đi Quy Nhơn.

          Ông em này, như bao thanh niên khác, đến tuổi thì phải đi lính, sau 75 cũng có phải đi tập trung mấy hôm rồi về nhà làm ruộng. Lần đầu tôi về quê là ngủ chung giường với ông này. Hai anh em ôm nhau nói chuyện suốt đêm, chả thấy chiến tuyến chiến teo gì, chả thấy có gì khác nhau giữa hai thằng đàn ông con cô con cậu mà nếu không có năm 75 có khi đã ôm súng bắn nhau.

          Vấn đề là thời ấy đói vô cùng. Cả nước đói thì Huế là đói nhất. Vì cái đất nó khô cằn khắc nghiệt thế, và cũng vì nó chứa nhiều trường đại học cao đẳng trung cấp quá. Sau Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh thì Huế là địa phương thứ 3 có nhiều sinh viên. Mà sinh viên thời ấy là được bao cấp gạo ăn 15kg/ tháng (dù 2/3 là độn sắn, bo bo), có 18 đồng học bổng và chế độ tem phiếu. Đất ít, nghề ít, người đông, đói là phải. Và vì nhiều lý do nữa khiến ai cũng nghèo xơ ngèo xác. Lại thêm cú đổi tiền ngoạn mục mà đến giờ nhắc lại nhiều người vẫn còn ngơ ngẩn là tại sao lại phải làm thế? Vèo phát, thế là tay trắng…

          Nhớ thời đi lính đóng trên Tây Nguyên, anh này thấy vùng Quảng Đức đất rộng người thưa, thế là bàn với vợ… nhảy. Thực ra thì chỉ mình anh ta quyết, vợ chỉ có mỗi một việc vĩ đại là… gật. Đến như đẻ bao nhiêu con cũng một tay chồng quyết nữa là, nên vợ thì rất sợ không có gì cho con ăn, nghe đến đẻ là sợ tái người, mà vợ chồng nhà này có đến bảy đứa con lít nhít… Và cũng là quyết thế, chứ có nhớ Quảng Đức nó là đâu, đi thế nào, lên đấy chui vào đâu. Mà Quảng Đức lại rộng thế, thời chế độ cũ, nó là một tỉnh. Theo Wikipedia tiếng Việt thì Tỉnh Quảng Đức có diện tích 5.958 km² giáp các tỉnh Đăk Lăk, Tuyên Đức, Lâm Đồng và Phước Long, ngoài ra còn giáp Campuchia, có 3 quận, 4 tổng, 14 xã (năm 1960)… Nhưng thà đi còn hơn ngồi nhà chờ… đói, vậy nên “cách mạng” nhiều khi nó chỉ là từ… đói quá.

          Hai bàn tay trắng, hai vợ chồng hai đôi quang gánh với bốn cái thúng, trong ấy là chổi cùn giẻ rách, mấy cái xoong thủng, dăm cân gạo và chục cân khoai khô. Hình ảnh đậm nhất trong tôi là một thằng cu con, đứa bé nhất, ngồi trong một cái thúng, còn bọn khác dắt díu nhau. Tôi đưa lên ga Huế, lấy vé tàu chợ đi Quy Nhơn. Tàu chật hơn cá trích trong chẹt nên hai vợ chồng lại phải lên hai toa khác nhau, chồng phải lên toa đen với đứa con lớn nhất. Tôi đẩy được đứa cuối cùng lên cái cửa toa toàn chân người đứng thì tàu xình xịch chạy… Sau nghe nói cuộc đi ấy 5 ngày mới tới Quảng Đức.

          Cũng sau đấy một thời gian, một cô em cô cậu khác của tôi, em ruột của người đàn ông đưa vợ con đi ấy, cũng âm thầm rời quê đi Quảng Đức.

          Cô này có một số phận cũng lạ.

          Con cô ruột tôi, đến tuổi thì cũng lấy chồng. Chồng là một anh lính Việt Nam cộng hòa đến đóng trong làng. Đẻ 2 đứa con một trai một gái kháu khỉnh thì một đêm, anh này bị bắn chết khi bộ đội tấn công cái đồn do anh và đồng đội bảo vệ. Góa chồng, một mình oằn lưng làm ăn kiếm tiền nuôi 2 đứa con trứng gà trứng vịt. Đói quay quắt.  Ai ở Huế thời ấy thì nhớ. Vùng nông thôn dân may quần áo bằng bao cát Mỹ. Mà có bao cát Mỹ mà may quần áo còn là may. Em tôi và 2 đứa con suốt ngày mặc cái quần cộc may bằng bao cát, thức ăn chủ yếu là khoai vùng cát bở ứ cổ với canh hến nấu rau lang mà nhà ai cũng phải cử người đi bắt. Giờ hến là đặc sản, rau lang cũng thế, thời ấy nhìn thấy hai món ấy là rùng mình. Cái nhà của ba mẹ con cũng… vĩ đại như chủ. Nó là bốn cây tre chôn xuống đất, rồi xung quanh cột tranh, trên nóc lợp tranh, nền toàn cát là cát. Chỉ duy nhất một cái giường cho ba mẹ con, phía trên gác một cây sào giăng đầy quần áo bằng bao cát…

          Tôi từ miền Bắc về quê, cũng chả làm gì cho em hết khổ vì tôi vừa mới học xong… lớp 10, nhưng cảm nhận rất rõ nỗi khổ ấy.

          Ba tôi có một ông bạn cùng quê, tên là Hoài, cùng tập kết ra Bắc, ít hơn ba tôi dăm tuổi, kêu ba tôi bằng anh và tôi kêu ông này bằng chú xưng cháu. Ông Hoài ngay sau giải phóng về quê thì nhà chả còn ai, có mỗi ông anh họ xa, còn lại thì đã mất sạch trong chiến tranh. Ông có tham gia làm việc cho xã, có lương hưu. Thế rồi chả biết từ lúc nào, ông chuyển sang gọi ba tôi là… cậu, và tất nhiên tôi lên hàng anh của ông. Tức là ông rổ rá cạp lại với cô em tôi.

          Hai vợ chồng 1 suất lương hưu với 2 đứa con, khổ quá, ngày mai xa vời quá, tương lai mờ mịt quá, theo chân ông anh, thế là cũng… Quảng Đức.

          Từ vài người đi ban đầu, giờ chỉ nguyên ở thị xã Gia Nghĩa, có hẳn một hội đồng hương Thế Chí Tây, tức là làng tôi. Hội đồng hương này sinh hoạt rất vui và hiệu quả, ngoài việc giúp đỡ nhau tại chỗ, còn ủng hộ quê nhà nữa…

          Đêm đầu tiên tôi đến Gia Nghĩa, đang dự chiêu đãi thì con của ông em, cái ông tôi tiễn lên tàu thuở nào ấy, lái ô tô đến tận nhà hàng đợi đón bác. Cái nhà hàng khá lớn tôi vừa ngồi cũng của một ông Thế Chí Tây. Về đến nhà, sau hàng loạt cú điện thoại thì bọn cháu lũ lượt đến, mang theo chồng, vợ, con ra mắt bác, ông. Đứa nào cũng ô tô riêng, có đứa có đến mấy chiếc, cho thuê. Mấy đứa đi làm nhà nước, ở những cơ quan oách như sở Kế hoạch đầu tư, sở Giao thông vận tải, cục thuế, văn phòng đảng ủy khối, v.v… mấy đứa còn lại thì là chủ  của các cửa hàng kinh doanh lớn ở trung tâm Gia Nghĩa. Và điều quan trọng là chúng rất ngoan và đoàn kết, thương yêu nhau. Có đứa vào đến Đăk Nông mới đẻ, thế mà gặp bác cứ như thân thiết tự thuở nào. Hôm ấy tôi ngồi ở nhà chú em với các cháu rất lâu, chúng tôi uống bia, lũ cháu gái, cháu dâu ngồi chầu rìa, và dù rất khuya, không thấy đứa nào nhấm nháy chồng ra về trước khi tôi tuyên bố nghỉ để mai bác họp. Tuy là anh nhưng tôi ít tuổi hơn mấy người em kia. Họ ngồi lọt thỏm giữa đám con cháu, vẻ sung sướng mãn nguyện…


          Đêm sau thì lại mấy đứa cháu con cô em, cũng mang hẳn mấy ô tô đến đón về nhà một đứa rồi tất cả tập trung ở đấy. Ngoài hai đứa với người chồng trước, em tôi có thêm… 5 đứa với ông Hoài, tất cả đều đã lớn, nhà cửa đàng hoàng, phần lớn chúng cũng là chủ các cửa hàng, garage lớn… Cả 7 đứa cháu này, giờ mỗi đứa mỗi phận, mỗi gia đình riêng, có đứa đã có cháu nội, cô em tôi đã lên hàng bà cố, nhưng cuối mỗi ngày chúng vẫn thường tụ tập về nhà một đứa nào đó, rước mẹ đến, trước là mẹ vui, sau là các con các cháu vui. Thêm một chi tiết này để thấy chúng đã vươn lên từ khốn khó như thế nào. Cái đứa mà cả nhà chọn tụ tập lại đón tôi ấy, 12 tuổi đã phải đi buôn bán. Người nhỏ mà cái xe đạp chất hàng cồng kềnh, lút cả người, ngày nào cũng oằn mông đẩy xe như thế. Gặp chồng nó đi bán kem, tự làm kem đi bán dạo. 1000 đồng một cây nhưng nếu ai mua… 500 cũng bán. Nó lấy dao cắt đôi que kem, lấy báo gói đưa cho người mua, phần còn que bỏ lại vào thùng. Gặp nhau, lấy nhau, giờ nhà là cái garare to nhất thị xã Gia Nghĩa, ngoài garare còn kinh doanh ô tô và bỏ hàng thực phẩm…

          Với những người Việt có gốc gác ở phía Nam, số phận trớ trêu thế là thường. Ai mà chả trên bàn thờ có ảnh của 2 màu áo lính, và những bà mẹ, thắp hương cho con, họ có phân biệt áo nào với áo nào, tất cả là con của mẹ. Như tôi, ba tập kết, nhưng các em con chú, cô, cậu tôi, họ ở lại. Nhà tưởng như 2 chiến tuyến, nhưng gặp nhau, chỉ có yêu thương, sẻ chia, bù đắp…

          Tất nhiên hai người em tôi chỉ là những số phận bình thường trong đông đảo những người dân ở đây, và ở đây tôi cũng còn rất nhiều bà con khác, nhưng lẩy ra hai số phận cụ thể để nhìn từ họ, tôi thấy sự đổi đời của một vùng đất, của những con người, khắp nơi tứ tán tụ về, làm thành một vùng quê mới, nhận vùng đất vốn xa lạ thành nơi mình gắn bó, trao thân gửi phận. Bây giờ con đàn cháu đống ở đây, nhà cửa ở đây, chôn nhau cắt rốn ở đây, có cả người đã an nghỉ ở đây, thế chả quê hương thì là gì. Nhưng cái giống người Huế rất lạ, đi đâu, làm gì, thành đạt cỡ mấy, thì hàng năm cũng đều tìm cách về thăm quê, huống gì, bây giờ thuận tiện, xe giường nằm về tận cổng nếu như anh không có hoặc không muốn lái xe riêng. Ngay tôi, kẻ viết bài này, thì quê ở Huế nhưng giờ cũng đang sống ở Pleiku. Và mẹ tôi, một phụ nữ người Ninh Bình, thì đã nằm ở nghĩa trang gia đình ở làng Thế Chí Tây, Điền Hòa, Phong Điền, Thừa Thiên Huế, cùng với ba tôi…

          Những cuộc đời, những con người, những số phận như thế ở vùng đất mới này nhiều lắm. Trong câu chuyện với tôi, lũ cháu, đã trưởng thành hết, có đứa đã có dâu, rể, rất hay dùng từ “Đăk Nông mình”, “Gia Nghĩa mình”… mỗi khi nhắc đến nơi chúng đang sống…


          Tức là một thế hệ mới đã thành người Đăk Nông, và tôi lại có thêm một nơi chốn để đi về mỗi khi “giang hồ vặt” trên Tây Nguyên…
                                                                             Pleiku 18/6/2014
                                                                                      V.C.H
---------
 Bản đầy đủ in ở báo Văn Nghệ số hôm nay.
 
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét