ĐÔNG LA
NHỮNG SỰ “CÙ LẦN” CỦA “ÔNG ĐÈN CÙ”
Một người thông minh là người không chỉ làm ra được những điều mới mẻ có giá trị mà còn biết nhận ra sai lầm của chính mình. Với khoa học công nghệ thì dễ, nếu sai anh sẽ biết ngay vì kiểm chứng sai hoặc không cho ra sản phẩm. Bộ óc vĩ đại như Einstein cũng đã buộc phải thừa nhận mình là “ngu ngốc” khi đưa vào phương trình của mình “hằng số vũ trụ” vì ông cho rằng vũ trụ là “tĩnh”. Nhưng với chính trị tư tưởng thì khác, vì thế giới còn phân cực nên vẫn có những sự sai trái được ủng hộ, tung hô. Những cuốn như Bên thắng cuộc của Huy Đức hôm nào và Đèn cù của Trần Đĩnh hôm nay chính là loại như vậy. Ngưu tầm ngưu mã tầm mã mà. Họ bất chấp sự phi lý, sai trái, viết ra để ngụy biện, muốn lau đi những gì nhem nhuốc trên gương mặt mình, và tệ hơn nữa, là vì tiền, nhưng vẫn có những kẻ ca ngợi. Có điều để tranh biện khách quan, ai cũng phải dựa trên cơ sở của đạo lý, như cướp của giết người thì phải là xấu, xâm lược thì phải là phi nghĩa. Từ đó ta sẽ thấy chủ trương đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước, giành lại nền độc lập của chúng ta như lịch sử đã diễn ra tất yếu là đúng đắn, là chính nghĩa. Chỉ có những kẻ mất nhân tính mới không thấy như vậy. Một người đã ở tuổi U90 như Trần Đĩnh, lại từng làm ở báo Sự Thật (tiền thân của báo Nhân Dân), sau ngày thống nhất đến 40 năm, vẫn viết sách cho cuộc kháng chiến của chúng ta từng khiến cả thế giới và đến cả kẻ thù cũng phải khâm phục, là sai lầm, thì đầu óc ông ta đúng là cù lần thật! Và cái tựa đề “Đèn cù”, ông nên dùng để chỉ sự lẩn quẩn của chính mình thì đúng hơn.
Đặt tên cuốn sách là Đèn cù, Trần Đĩnh muốn nhạo báng sự thay đổi những quyết sách của các nhà lãnh đạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Một khe nứt ngoài sức tưởng tượng! Ngày nào ai nói vừa đánh vừa đàm, ai nói Liên Xô cũng bênh Trung Quốc mà chống Mỹ thì cầm chắc chết. Nay lại chính là Bộ Chính trị. Thay đổi quả là nhanh gọn. Trước kia ai li khai Liên Xô, tổ quốc của cách mạng vô sản thế giới thì chết, ai dè đến Nghị quyết 9 chửi Liên Xô phản động lại là tuyệt vời cách mạng. Dân từ đó đẻ ra câu: sáng đúng chiều sai đến mai lại đúng. Và ông Trung Quốc bà Liên Xô, ông nhảy dây, bà đá bóng. Lộn tùng phèo hết”.
Viết vậy, Trần Đĩnh đã ngây ngô không hiểu rằng, với chính trị, cái chuyện đèn cù “sáng đúng chiều sai mai lại đúng” lại chính là một thuộc tính của nó. Ta thấy trên thế giới, Anh, Pháp, Mỹ từng là kẻ thù của Đức, Ý, Nhật trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, nhưng nay họ là đồng minh. Còn Liên Xô từng là đồng minh với Anh, Pháp, Mỹ chống Phát-xít nhưng rồi lại đối đầu nhau trong cuộc chiến tranh lạnh. Đọc truyện Tam Quốc ta thấy có những ông quan làm nghề thuyết khách, họ thường “uốn ba tấc lưỡi” thuyết phục kẻ thù cũ hợp tác để chống kẻ thù mới, xong rồi thì họ lại tiếp tục chống nhau. Là một nhà báo, lại làm ở báo Nhân Dân, báo chính trị, vậy mà không hiểu điều đó thì tác giả Đèn cù lại là cù lần! Mà khốn nạn ở chỗ không chỉ là chuyện hiểu hay không hiểu, sự cù lần này đã làm Trần Đĩnh bị thất sủng, bị khốn khổ, rồi cả một đời tự giam cầm trong sự quẩn quanh sai trái của chính mình.
Cái sai lớn nhất của Trần Đĩnh là không hiểu, để làm được một việc gần như không tưởng, gần như tay trắng mà muốn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, nước ta đã phải tận dụng mọi sự giúp đỡ của “hai ông anh Xô-Trung” và tất cả các nước khác. Ngược lại ta cũng không đồng tình với tất cả những gì làm khó khăn cho mục đích tối thượng đó, kể cả từ phía Liên Xô hoặc TQ. Trần Đĩnh cũng đã không phân biệt được chuyện ta chỉ chống quan điểm xét lại của Liên Xô chứ không chống Liên Xô, ta theo Trung Quốc vì Trung Quốc giúp ta chứ ta không chấp nhận sự bành trướng. Việc Trần Đĩnh lặp lại rất nhiều lần cái ý ta chống Mỹ là cho Trung Quốc chứ không phải cho chính ta thì một lần nữa cũng lại là một cái nhìn cù lần!
***
Gắn với số phận Trần Đĩnh, khởi thủy từ chuyện Khrusov, giữa năm 1956, đưa ra luận điểm “chung sống hòa bình” mà ta cho là “chủ nghĩa xét lại”.
Là một người lương thiện có ai không muốn chung sống hòa bình? Nhưng lịch sử thế giới là là lịch sử của những kẻ khi mạnh thì thường tham lam, luôn muốn thống trị kẻ yếu. Đến tận hôm nay vẫn như vậy. Như việc “con bò” Trung Quốc vẫn đang muốn “liếm” hết Biển Đông chẳng hạn. Như vậy “luận điểm chung sống hòa bình” của Khrusov là chuyện không tưởng.
Vậy Khrusov, thần tượng của Trần Đĩnh và những người trong vụ án “Xét lại chống Đảng”, là người như thế nào?
Khrusov từng thông qua vợ của Stalin, bạn học ở đại học, để thể hiện “sự trung thành của mình”. Nhưng khi nắm quyền đã phủ định hoàn toàn Stalin. Để nắm trọn quyền lực, năm 1953, Khrusov đã phải dựa vào sức mạnh của Nguyên soái Zhukov tổ chức bắt rồi xử tử Bộ trưởng Nội vụ Beria, cánh tay phải nắm an ninh dưới thời Stalin. Trước đó, Khrusov cũng đã từng chịu ơn Zhukov. Năm 1944, trong đoàn xe hộ tống đại tướng N. F. Vatutin bị phục kích có xe của Khrusov. Có người tố cáo với Stalin rằng Khrusov đã bỏ chạy nhưng Zhukov đã nói với Stalin là Khrusov đã làm mọi cách để cứu Vatutin. Năm 1957, có một dự thảo nghị quyết cách chức Bí thư thứ nhất của Khrusov, Zhukov một lần nữa đã ủng hộ Khrusov với lời tuyên bố: “Quân đội chống lại nghị quyết này và sẽ không có một chiếc xe tăng nào rời khỏi vị trí nếu không có lệnh của tôi !”. Vậy mà trong một chuyến công du Nam Tư, khi Zhukov xa “đoàn xe tăng” của mình, ông đã bị cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phía sau lưng, Khrusov đã không làm gì giúp ông. Ngược lại, theo nhiều nhà phân tích, chính Khrusov cũng sợ Zhukov, một căn bệnh có tính truyền thống: "Sợ kẻ có sức mạnh". Nhưng rồi đến chính Khrusov cũng bị mất chức. Năm 1964, theo Mesyatsev: “Hội nghị toàn thể đã bầu Khrusov làm Bí thư thứ nhất. Và cũng chính Hội nghị toàn thể cho ông thôi chức này. … Khrusov cũng đã thừa nhận rằng, ông không thể tiếp tục lèo lái nhà nước và đảng được nữa. — Như vậy, các thành viên BCH TƯ đã hành động không những hợp pháp, mà đây còn là lần đầu tiên trong lịch sử xô-viết của đảng, bằng thuyết phục, họ đã dũng cảm đi tới thống nhất cho thôi chức một lãnh tụ, người đã mắc nhiều sai lầm”.
Không chỉ như vậy, Khrusov cũng chính là người đã gieo mầm ý thức làm tan rã Liên Xô. Thời trẻ, khi Goocbachov hình thành thế giới quan cũng chính là vào thời kỳ Khrusov phủ định hoàn toàn Stalin. Goocbachov từng nói: “Thời trẻ chúng tôi tin theo Đảng, trung thành gia nhập Đảng, nhưng sau Đại hội 20, tư tưởng của chúng tôi bắt đầu có sự thay đổi”. 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội thông qua nghị quyết về lập chức Tổng thống Liên Xô và lời tựa Hiến pháp Liên Xô đã xóa đi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản!
Rút cuộc, Khrusov chỉ là một người tầm tường như vậy. Chung sống hòa bình nói chung là tốt nhưng với riêng nước ta là phi lý vì là sự chung sống với kẻ bán nước và kẻ cướp nước! Chỉ có những kẻ phản bội, muốn bán nước cầu vinh mới chấp nhận chuyện trái đạo lý ấy.
***
Có lẽ cần phải dạy đôi nét lịch sử cho Trần Đĩnh và những kẻ mù lịch sử biết. Năm 1858 nước ta bị Pháp xâm lược, những cuộc kháng chiến của quân dân ta đều bị thất bại, đến cả Vua Hàm Nghi, rồi Vua Duy Tân cũng đã bị Pháp bắt đi đầy. 1887, khi Pháp lập Liên bang Đông dương thì dân ta đã thực sự mất nước. Chỉ đến Cách mạng tháng 8 - 1945, chúng ta mới giành lại được chính quyền. Bảo Đại bù nhìn đã thoái vị, 2-9-1945, khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, một nhà nước mới, Nước VNDCCH, đã thực sự chào đời. Rồi khi Pháp quay lại, chính nhà nước ấy đã làm nên chiến thắng ĐBP 1954 chấn động Địa cầu, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève 1954, trao trả nền độc lập cho VN. Đến đây thì làm sao chúng ta lại có thể chung sống hòa bình với những kẻ phá hoại Hiệp định, chung sống với một chế độ tay sai, tiếp tục bán nước của Ngô Đình Diệm.
Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”. Trong thời gian chúng ta vẫn kiên trì chờ đợi thực hiện Hiệp định, Ngô Đình Diệm đã đưa ra luật 10/59, lê máy chém khắp nơi để diệt cộng; với những nhà tù khét tiếng như nhà ngục Chín hầm ở Huế, nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc v.v… Những hành động tàn sát chính đồng bào mình được coi là quốc sách. Mức độ độc tài, tàn ác quá lớn đã làm mất lòng cả thuộc cấp, làm phật ý cả Mỹ, vì thế Diệm mới phải chịu quả báo nhãn tiền, bị đảo chính, bị giết. Ấy vậy mà đến tận giờ vẫn có những kẻ thuộc “bên thắng cuộc” như Lê Công Định tôn thờ Ngô Đình Diệm, và với Trần Đĩnh thì cũng thật là cù lần khi đến tận giờ vẫn cho cần phải “chung sống hòa bình” với một chế độ như thế. Hãy xem lá thư quỵ lụy, kể công bán nước với Pháp của Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, người đã dựa vào thế lực công giáo, giúp em mình đoạt quyền từ Bảo Đại:
"Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...."
Như vậy, theo lẽ thường, chỉ có Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng ĐBP 1954 và Chiến dịch HCM giành toàn thắng vào ngày 30-4-1975 là những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Thật kỳ quái, đã 40 năm sau ngày thống nhất, vậy mà Trần Đĩnh, một nhà báo từng là Đảng viên, vẫn cho rằng cuộc kháng chiến thần thánh của quân dân ta là cuộc chiến ý thức hệ, chúng ta chiến đấu bởi sự giật dây của Trung Quốc, chiến đấu cho Trung Quốc chứ không phải cho chính ta:
“Nhưng đến nay, bây giờ khi viết những dòng này, tôi lại hình dung thấy tất cả phe cộng sản lúc ấy là một chậu nước lớn nhưng đã ngầu đục bị Mao lắc cho nổi sóng cuộn gió và bên trong chậu đó các anh hùng hảo hán, các kẻ vệ đạo nghiêng ngửa hò hét hủy diệt nhau. Trong sóng gió tối tăm ấy của cộng sản (thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ)”.
Trần Đĩnh cần phải hiểu, nước ta đã bị Pháp rồi Mỹ xâm lược chứ không phải Trung Quốc bị xâm lược. Nên ta tiến hành cuộc kháng chiến giành độc lập trước hết là cho chính ta chứ không phải cho Trung Quốc. Nếu cuộc kháng chiến của ta có lợi cho Trung Quốc như phên giậu bảo vệ họ thì chỉ là một lẽ tự nhiên, một công đôi việc, vậy Trung Quốc vì lợi ích của họ mà giúp ta cũng là điều hợp lý. Việc cho chúng ta “đổ máu cho Trung Quốc” là một cái nhìn thiển cận của một kẻ tâm thần!
Trần Đĩnh cần phải công nhận thực tế, nước ta từ một đất nước có 2 triệu người chết đói, được như hôm nay, dù còn nhiều tệ nạn, yếu kém, kể cả sai lạc, dân ta vẫn đang được sống những ngày hạnh phúc nhất so với toàn bộ lịch sử của dân tộc. Kể cả những kẻ đang to mồm chống chế độ, thực tế chỉ vì đố kỵ nhỏ nhen, vì tham vọng không cùng, vì cơ hội, muốn bắt cá nhiều tay, chứ bọn chúng thực tế đã được hưởng rất nhiều danh lợi từ chế độ. Mà hạnh phúc của chúng ta hôm nay chính là hạnh phúc thật, tự tay ta làm ra, chứ không như sự “phồn vinh giả tạo” của Sài Gòn trước 1975. Nói giả tạo là nói thật chứ không phải tuyên truyền bởi sự phồn vinh đó đã ăn theo chi phí của Mỹ cho chiến tranh mà nhà kinh tế Steven ước tính lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai. Và theo ông Nguyễn Tiến Hưng, cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VNCH hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng đã huỵch toẹt ra rằng: “Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!”
***
Từ ảo tưởng về tư tưởng chủ hòa, há miệng chờ sung, Trần Đĩnh đã mù lòa trước tội ác của kẻ xâm lược, của kẻ theo giặc làm tay sai, nên đã phân chia các nhà lãnh đạo nước ta làm hai phe: “chủ chiến” và “chủ hòa”. Phe chủ chiến gồm có Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, v.v… Phe chủ hòa gồm có Bác Hồ, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, v.v…
Vốn coi Khrusov là thần tượng với tư tưởng “chung sống hòa bình”, Trần Đĩnh theo phe “chủ hòa”. Nhưng là người cố chấp, ngu lâu nên khi thấy phe “chủ hòa” thống nhất ý kiến với phe “chủ chiến” mà ông ta cho là họ đã “đầu hàng”, Trần Đĩnh đã “thất tình” với họ. Ông ta viết: “Tôi yêu Trường Chinh và không ưa Lê Duẩn. Quan điểm tả khuynh bạo lực của Lê Duẩn không thuyết phục tôi”. Nhưng rồi: “Trường Chinh đã đổi dòng. Ông mà lại theo Mao muốn Xô, Mỹ chỏang nhau cho ruồi muỗi chết! Có thể nói đây là một thất tình của tôi với Trường Chinh, cũng là mối thất tình đầu tiên trong đời”. “Chủ trương vũ trang để thống nhất đất nước của Duẩn, Chí Thanh đã thắng. Trường Chinh đầu hàng Duẩn là cánh chủ hòa qụy”; “Cụ Hồ không bỏ phiếu … Người mà tôi hy vọng cuối cùng thế là cũng thua nốt: thua đám con em của Cụ trong cơn nguy cấp ầm ầm sấm sét này. Thì ra thường là Cụ thua”.
Từ đó Trần Đĩnh cảm thấy:
“Tôi chợt mệt tưởng như có thể khuỵu xuống. Vốn đã biết Nghị quyết 9 là nhằm chuẩn bị đánh Mỹ… Mới nhận thấy vì quá sợ, quá ghét cái triển vọng bom đạn ùng oàng nên lâu nay tôi cố tin hết từ Trường Chinh, Cụ Hồ đến lương tri của Trung ương để rồi nay thì chiến tranh nó đang lù lù ở trước mặt. Một cuộc chiến tranh mà người ta đã đem trang hoàng như cỗ xe hoa lộng lẫy trong hội lễ hóa trang carnival… với bầu khí quyển khủng bố mà bọn chúng tôi đang được nếm trước. Ở tôi lúc này trùm lên trên tất cả là tâm trạng thua. Đúng hơn, một không gian thua, một trận địa thua, một đời vét sạch cho thua, thua nhẵn, thua nhục, thua rã rượi mênh mang toàn diện và nó đang dìm tôi ngập lút vào trong nỗi tự ái cay đắng. Tôi thấy tôi bơ vơ, côi cút trong đêm đen ngòm ở giữa một sa mạc hoang vắng là thế giới hung hãn khát máu này”; “Sao hòa bình dân chủ không lay động lương tri người ta?”.
Trần Đĩnh cho những người quyết tâm dùng bạo lực đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất đất nước là “Mao ít”, là “chống Liên Xô”, là những người “muốn biến đất nước thành ra bãi chọi trâu”; “Khốn nạn, đại loạn là cách mạng, yên bình là phản cách mạng, nói ngang như thế mà nghe lại sướng mê sướng mẩn lên với nhau kìa! Khốn nạn!”; “Chiến tranh hớn hở đến gần và cái phao tôi bám vào đã nổ đánh bụp”.
Vào những năm 60, Trần Đĩnh mới ở tuổi 30, các vị lãnh đạo tối cao như Lê Duẩn, Trường Trinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ đã ở tuổi trên dưới 50. Về tuổi, Trần Đĩnh so với họ chỉ là thằng chọi con, về công việc thì chỉ là thằng nhà báo, ai cần thì sai vặt chuyện ghi chép. Chính Trần Đĩnh tự bơm mình lên để có đủ tầm cao nhận định về họ, nhưng tầm nhìn của một mô đất thì làm sao có thể thấy những đỉnh núi nghĩ gì nên ông ta mới “thất tình” như vậy. Trường Chinh mà Trần Đĩnh kể đã chỉ dậy Trần Đĩnh những chữ nghĩa đầu tiên trong nghề báo chí, tức rất hiểu Trần Đĩnh và có chút ân tình quen biết, vậy mà theo chính Trần Đĩnh kể: “gặp tôi ở sân báo, Quang Đạm bóp bóp tay tôi nói: - Mình vừa lên anh Năm (tức Trường Chinh) về, anh Năm bảo sao Trần Đĩnh lại sa đọa chính trị thế?”. Như vậy, một người thầy cỡ như Trường Chinh chỉ cho mà Trần Đĩnh vẫn không nhận ra được cái sai của mình thì là thằng học trò quá dốt, lại yếm thế, nhỏ nhen, nên cả đời mới sa lầy trong cái ao tù mặc cảm, giận hờn, tự thân làm tội đời mình!
***
Có một ý Trần Đĩnh rất “cù lần” viết trong Đèn cù là : “Trong khi hết lời ca ngợi phản chiến ở Mỹ thì tại sao trừng trị chúng tôi ác nghiệt đến thế và đặc biệt trước sau không bao giờ nêu tội danh phản chiến của chúng tôi ra?”. Mang danh là một nhà báo, mà lại ở báo Nhân Dân nhưng Trần Đĩnh không phân biệt nổi chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa, cuộc kháng chiến tự vệ với sự xâm lược. Trần Đĩnh cần phải hiểu cho đúng những người như ông không phải “phản chiến” mà là “phản động”, tức là phản lại xu hướng vận động chung của đất nước. Trần Đĩnh viết: “Viết Bất Khuất, tôi không một lời chửi Mỹ, trong khi đặc trưng của văn học cách mạng là phải tìm mọi dịp lên án nó, thằng đế quốc kẻ thù của loài người và nhân dân Việt Nam”. Hồi chiến tranh, Mỹ mang bom đạn đến giết dân ta mà Trần Đĩnh “không chửi Mỹ” chứng tỏ hồi đó Trần Đĩnh là một kẻ bất lương, còn đến hôm nay mà vẫn viết thế chứng tỏ là một kẻ cơ hội, muốn trông ngóng Mỹ “giải ngân” chăng? Trong chiến tranh Mỹ là “giặc” thì một người lương thiện phải biết chửi giặc, còn bây giờ Mỹ là “bạn” mà vẫn chửi Mỹ như xưa thì sẽ là một con “bò đỏ”! Người hiểu đạo lý thì phải biết ứng xử “biện chứng” như thế. Cũng mất nhân tính như Dương Thu Hương “khóc như cha chết trong ngày toàn thắng”, Trần Đĩnh viết: “1975. Tháng 4. Đại thắng mùa xuân. Bỏ báo xuống là một phản ứng buồn. Chính tôi thua. Với thân phận kẻ bị đàn áp, rất bản năng tôi đứng ngay vào phía bà con đại bại trong Nam. Gần trưa 30 - 4, Nguyễn Thành Long rủ tôi đi bộ về phía ngã tư Lý Thường Kiệt - Phố Huế. Đường ngày càng đông người hò reo. Tôi nói: “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù hộ”. Cho mình là người ghét chiến tranh yêu hòa bình thì hòa bình về phải mừng chứ sao lại buồn, sao lại trách cả trời đất phù hộ cho một dân tộc được hòa bình? Như vậy Trần Đĩnh đã tự biến mình thành kẻ địch nên phải buồn khi phe mình bị thất bại. Với đứa con gái, ông ta viết: “Tôi vẫy cháu đến bên giường. Thấy cần cho cháu hiểu điều cơ bản. Nói: - Cho con đi mừng đất nuớc hết chiến tranh, dân thôi chết chóc chứ không phải mừng chiến thắng vì khi con reo hò thì trong kia có thể ông nội và các cô chú của con lại đang khóc... bởi bom đạn ngoài này giết chết mất người thân”.
***
Để biện hộ cho sai lầm của mình, Trần Đĩnh dựa vào bao thứ màu mè, từ nhân danh chủ nghĩa nhân đạo yêu hòa bình, ghét chiến tranh, đến nhân danh tư tưởng triết học của Karl Popper bác bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - xít, cho là thứ thuốc mê gây ảo tưởng chủ quan, lạc quan tếu, viển vông, nhưng như câu nói với đứa con gái ở trên, con người Trần Đĩnh như vậy đơn giản chỉ là vì mang gen di truyền. Ở đây khoa học lại tỏ ra tuyệt đối chính xác. Bởi Trần Đĩnh là con của một người mà chính ông ta “khoe” như thế này:
“Một thời gian dài bố tôi đã là giáo viên phản diện về chính trị. Lúc tôi bé, mẹ hay kể bố ngày học ở Bưởi rất nhiệt huyết cách mạng… Để tang Phan Chu Trinh rất hăng hái, bố bị Trường Bưởi đuổi rồi vào sổ đen mật thám. Thế là sợ, về đi làm và ăn chơi, và để ăn chơi thì ăn hối lộ. “Bố các con chỗ này xoàng. Con một mà,” - mẹ thường nhận xét. Khi bố tôi tản cư về quê vợ của ông (một người bạn của bố Trần Đĩnh), ông là chủ tịch huyện liền chuẩn bị đưa lính đến bắt. Em vợ bác ngầm báo và bố tôi đành để ông bà và chúng tôi ở lại mà về thành”.
Tuy ở hai phía đối đầu nhưng hai cha con Trần Đĩnh luôn đồng chí, đồng lòng nên “Xong chiến tranh cả tháng tôi rất buồn: không có tin của bố và các em tôi. Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu. Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây”. Lại một phản xạ có điều kiện của loài vật, được ăn ngon thì tiết ra cảm giác sung sướng, mà không hiểu rằng với loài người, có miếng ăn là miếng nhục. Mà miếng ăn làm nên cái “sướng” của một bộ phận dân cư tại đô thị ở Miền Nam trong chiến tranh không chỉ là miếng nhục mà còn là miếng ác, có dính máu!
***
Qua việc Trần Đĩnh kể, dù có thật đi chăng nữa, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có sự khác nhau về quan điểm giữa những vị lãnh đạo tối cao của cách mạng nước ta, nếu là người hiểu biết cũng sẽ thấy đó chỉ là chuyện bình thường. Bởi với một việc con con người ta đã có những ý kiến khác nhau thì cả một sự nghiệp giải phóng dân tộc làm sao ngay lập tức tất cả đều nghĩ giống nhau. Cái chính là sau đó những sự khác biệt được giải tỏa, không ai vì cái tôi mà tất cả đã vì sự nghiệp chung, nên cuối cùng họ đã đi đến thống nhất với nhau. Từ trước tới nay lịch sử mà chúng ta học là lịch sử đã được chưng cất, tinh lọc, với quần chúng thì như thế là đủ; nhưng với các nhà nghiên cứu, các nhà lý luận, lịch sử không chỉ để tự hào mà còn là tấm gương soi, là bài học cho đời sau thì lịch sử cần phải được hiểu biết sâu sắc, toàn diện hơn. Nhưng nếu trí không đủ cao, tâm không đủ sáng, người ta rất dễ bị sa lầy vào những vùng trũng, những góc khuất của lịch sử. Vì thế cần phải có cái nhìn thấu suốt minh triết trên cơ sở của tri thức và đạo lý. Với triết học Mác, quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản và là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật: “sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển”. Vì không hiểu cả đời lẫn “đạo” triết học nên Trần Đĩnh mới ngây ngô chia phe, rồi cho phe này thắng phe kia như thế. Và chính vì thế ông ta mới không hiểu nổi chuyện: “Đến tháng 6 - 1967, tất cả những Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, gần hết Bộ chính trị và 11 nguyên soái đã bị Mao bỏ tù thì ở Việt Nam, tuy nằm ở Bắc Kinh, Cụ Hồ vẫn nguyên thanh thế chủ tịch nước có thơ gửi đồng bào, bộ đội và đặc biệt Giáp vẫn đầy đặn danh hiệu, chức vụ, quyền lực”.
Như vậy, có thể ở giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bác Hồ và các vị Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã có những ý kiến thận trọng về cách thức tiến hành chứ hoàn toàn không có chuyện chia phe “chủ chiến”, “chủ hòa”. Việc chủ chiến là xuyên suốt. Nếu Bác Hồ có tư tưởng chủ hòa thì làm sao có chuyện Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại chuyện Bác đang bệnh trong lán Nà Lừa đã nói với ông câu nói đã thành bất hủ: “Dù phải đốt cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Và làm sao có chuyện chính Trần Đĩnh viết sau Điện Biên Phủ, Hồ Chủ tịch ôm Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Chúc chú thắng trận trở về, nhưng chúng ta còn phải đánh Mỹ”. Với Trường Chinh, thái độ chủ chiến của ông cũng thể hiện qua đoạn Trần Đĩnh kể: “Bất chợt tôi hỏi: - Có thể nói Hội nghị trung ương lần thứ 8 ở Pắc Bó là bắt đầu chấm dứt thời giáo điều mạo hiểm tả khuynh kéo dài của Đảng được không anh? Ngồi bật thẳng dậy, nhô người về đằng trước, Trường Chinh nhíu lông mày nghiêm nghị nhìn tôi, rồi rành rọt từng tiếng: - Không! Anh nghĩ không đúng. Đường lối của đảng ta là liên tục phát triển có kế thừa, không có chuyện thay đổi đường lối cũng như chấm dứt cái này cái kia”. Còn về Liên Xô chắc cũng đã có những ý kiến khác nhau: hoặc chống Liên Xô một cách cực đoan, hoặc cần phải giữ mối quan hệ với Liên Xô, chỉ nên góp ý với Liên Xô những gì sai mà thôi. Thực tế quan điểm giữ mối quan hệ với Liên Xô đã được thực hiện. Đơn giản là vì nếu không có tên lửa Liên Xô làm sao bắn cháy máy bay Mỹ? Chính Trần Đĩnh kể chuyện ông Ung Văn Khiêm nói về cách ứng xử của Bác Hồ với Liên Xô và Trung Quốc : “Cụ biết, biết rõ Liên Xô, Trung Quốc hầm hè nhau từ 1957, 58 rồi cơ. Năm 1958, Cụ dẫn một đoàn sang Trung Quốc, Liên Xô. Cụ tới Bắc Kinh, các cháu thiếu nhi khăn quàng đỏ ra đón chỉ tặng hoa và quàng khăn đỏ cho Cụ và Hoàng Văn Hoan, ủy viên Bộ chính trị phụ trách đối ngoại. Sáng sau Cụ bảo mình chú ở nhà, Bác với chú Hoan đi hội đàm với bác Mao… Nhưng khi ta đến Mát - xcơ - va thì thiếu nhi khăn quàng đỏ lại chỉ tặng hoa và thắt khăn quàng đỏ cho Cụ và mình. Chắc đại sứ quán Nga ở Bắc Kinh đã mách chuyện Hoan được khăn quàng đỏ. Lần này Cụ bảo Hoàng Văn Hoan ở nhà, Bác và chú Khiêm đi hội đàm với đồng chí Khroutchev”.
Lối ứng xử mềm dẻo đó của Bác trong lĩnh vực ngoại giao đã trở thành sách lược, thành bài học quý giá cho cách mạng nước ta. Nước ta là một nước nhỏ yếu, trình độ khoa học công nghệ kém, không phải muốn ứng xử thế nào với thiên hạ cũng được. Vậy mà có rất nhiều kẻ, chuyện đại sự quốc gia mà lại đòi xử sự như giữa những kẻ anh hùng rơm, sĩ diện hão.
***
Vì có cái nhìn thiển cận, Trần Đĩnh cho Lê Duẩn đơn giản là theo Trung Quốc chống Liên Xô để rồi băn khoăn chuyện “sáng đúng chiều sai mai lại đúng”. Thực tế, khi quan điểm xét lại của Liên Xô như gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa đấu tranh cách mạng nước ta. Liên Xô không tin ta có thể thắng được Mỹ. Podgorny từng nói với Lê Duẩn: "Các anh không thắng nổi Mỹ đâu". Ông đã trả lời: "Chúng tôi sẽ thắng cho các đồng chí xem". Sau Hội nghị Trung ương 9 chống chủ nghĩa xét lại, Lê Duẩn được cử sang góp ý với Liên Xô. Nhưng khi gặp họ, ông lại cảm ơn sự giúp đỡ của Liên Xô đã giúp cho cuộc đấu tranh ở Miền Nam tiến triển rất tốt đẹp và yêu cầu họ giúp đỡ tích cực hơn nữa. Khrusov đang chuẩn bị đối phó với thái độ phê phán của VN nhưng lại được nghe những lời cảm ơn như vậy nên rất mừng và đã vui vẻ chấp nhận ngay yêu cầu của Lê Duẩn. Sau khi được việc rồi Lê Duẩn mới có vài lời “góp ý với bạn”. Như vậy Lê Duẩn không chỉ là một nhà lãnh đạo quyết đoán, cứng rắn, mà khi cần ông cũng tỏ ra là một nhà ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo. Ông là người rất coi trọng việc Trung Quốc giúp ta chống Mỹ, nhưng chính ông cũng là người sớm nhận ra chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Theo hồi ký Trần Quỳnh, trong một cuộc gặp gỡ giữa Lê Duẩn với Mao ở Vũ Hán, khi Mao nói: “Tôi sẽ tổ chức một đội quân bần nông năm trăm triệu người. Tôi sẽ giải phóng cho cả Đông Nam Á, cho cả Việt Nam, các đồng chí không cần đánh”. Lê Duẩn nói: "Hắn nói giải phóng Đông Nam Á? Còn Việt Nam là của ta, hắn có quyền gì mà đem quân sang giải phóng Miền Nam ta? Chú thấy không? Tư tưởng bành trướng bá quyền đại Hán nó nói trắng trợn trước mặt ta, coi như chuyện dĩ nhiên. Thật là nguy hiểm hết sức". Năm 1972, trước khi Nixon sang Trung Quốc, Chu Ấn Lai sang Hà Nội. Lê Duẩn nói: "Các anh mời Nixon sang thăm Trung Quốc chẳng khác nào các anh đâm một nhát dao vào lưng chúng tôi. Việc giữa Trung Quốc và Mỹ các anh bàn gì chúng tôi không có ý kiến. Nhưng vấn đề Việt Nam là của chúng tôi, các anh không có quyền bàn. Giải quyết vấn đề Việt Nam như thế nào là do chúng tôi tự quyết định lấy. Còn vấn đề có viện trợ hay không cái đó tùy các anh. Các anh viện trợ, chúng tôi sẽ thắng Mỹ. Các anh không viện trợ chúng tôi phải hy sinh nhiều hơn nhưng cũng sẽ thắng Mỹ".
Như vậy hoàn toàn không phải như Trần Đĩnh viết, trước cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có việc chia phe chủ chiến và chủ hòa, chúng ta “Đánh Mỹ là bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa”, chúng ta chiến đấu cho Trung Quốc, v.v… Mà thực tế, quyết tâm dùng bạo lực thống nhất đất nước là đồng lòng, là xuyên suốt. Chúng ta đã thực hiện một chiến lược ngoại giao mềm dẻo, một mặt vẫn giữ được mối quan hệ để xin viện trợ, một mặt ta phải vượt qua được tất cả sự toan tính sai lầm, vụ lợi, ích kỷ của các nước lớn, để rồi chúng ta đã thực hiện được mục tiêu tối thượng của chúng ta là giành toàn thắng, để đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất như hôm nay!
***
Về vụ án chống Đảng mà Trần Đĩnh thực sự chỉ là một con tép riu, sau gần nửa thế kỷ (từ 1967), nếu hôm nay Trần Đĩnh không “kêu đau” chắc không ai biết Trần Đĩnh là ai. 19 tuổi đã được làm báo Sự thật (tiền thân của báo Nhân Dân), được chính đương kim TBT Trường Chinh dìu dắt, nếu trí cao, tâm sáng chắc chắn Trần Đĩnh sẽ thành đạt to. Nhưng tiếc là Trần Đĩnh lại thuộc diện tôi cao, trí thấp, tâm tối nên đã tự bôi đen cái số đỏ của mình. Trần Đĩnh cũng không có gan làm giặc chỉ “sa đọa chính trị” như đánh giá của Trường Chinh thôi. Trần Đĩnh một mặt vẫn hăng hái làm “bồi bút” và đợi “tăng lương”, một mặt vẫn ăn theo, nói leo sự sai trái, nên đã bị thất sủng, chỉ bị cải tạo lao động nhì nhằng chứ không bị đi tù. Như vậy, so với những người cùng trang lứa phải xông pha nơi hòn tên mũi đạn, quả là một may mắn cho một người hèn nhát như Trần Đĩnh trốn nghĩa vụ quân sự. Trần Đĩnh kể lại tâm trạng mình sau khi bị khai trừ Đảng: “tôi dửng dưng, tênh tênh khi bị khai trừ. Đúng! Nhưng không phải không có lúc suy sụp. Vì tự ái, xấu hổ… Rồi còn cả một chút tình ý bị mất quyền lợi… Và rơi vào diện chờ mọt xác mới được tăng lương”.
Về bản lĩnh chống đối, Trần Đĩnh không đáng xách dép cho Hoàng Minh Chính. Theo Trần Đĩnh: “tại hội nghị phổ biến Nghị quyết 9 ở trường Nguyễn Ái Quốc, Trường Chinh giới thiệu nghị quyết, Hoàng Minh Chính đã đứng lên bác lại. Vặn ngay Trường Chinh… Chính nói đánh Mỹ sẽ là cưỡi lưng cọp dữ chứ không phải cưỡi cọp giấy đâu”. Chính vì vậy Hoàng Minh Chính bị coi là người đứng đầu nhóm Xét lại Chống Đảng và là người bị bắt đầu tiên. Ở cương vị Viện trưởng Viện Triết học, Hiệu phó trường đảng Nguyễn Ái Quốc, Hoàng Minh Chính từng được giao nhiệm vụ soạn thảo bản Báo cáo chính trị của Hội nghị TW9. Nhưng Hoàng Minh Chính đã chọn lập trường “chung sống hòa bình” của Khrusov nên đã bị bác bỏ, nhưng Hoàng Minh Chính lại “không chịu thua”, đã viết tiếp và phân phát bài "Về chủ nghĩa giáo điều ở Việt Nam". Vì thế mới bị bắt.
Vụ án trên thực chất là một cuộc đấu tranh tư tưởng, thể hiện quyết tâm giải phóng, thống nhất đất nước, giành lại nền độc lập của các nhà lãnh đạo nước ta chứ hoàn toàn không phải là một cuộc đấu đá cá nhân như các nạn nhân tự biện hộ và các “nhà sử học phương Tây” suy diễn. Nhóm người bị bắt chỉ chiếm phần rất nhỏ. Bản thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp người bị xem là "mục tiêu hạ bệ" thực tế vẫn giữ chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương và tham gia vào mọi quyết định lớn. Trong hồi ký ông cũng phủ nhận việc có bất đồng với Lê Duẩn, bản thân ông cũng ủng hộ quan điểm đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam. Chính ông viết trong hồi ký: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”. Ngoài ra, những nhà lãnh đạo Việt Nam chỉ chấp nhận những quan điểm của nước ngoài ủng hộ cuộc kháng chiến của ta và chống lại tất những quan điểm không ủng hộ chứ hoàn toàn không phải đơn giản là chuyện theo hoặc chống Liên Xô hay Trung Quốc.
Vậy mà đến tận hôm nay Trần Đĩnh và nhiều người liên quan vẫn không hiểu bản chất vấn đề, vẫn cho mình bị oan. Có thể hình dung nước ta ngày đó như một con tầu vượt sóng gió giữa trùng khơi, các nhà lãnh đạo như thuyền trưởng cầm lái. Những người trong vụ án đã đánh thẳng vào tay lái đó nên đã bị bắt, bị kỷ luật chứ không phải vì họ theo Liên Xô hay chống TQ. Trần Đĩnh không hiểu điều này nên mới đặt tên cuốn sách là Đèn cù. Trong thời chiến, nếu không kiên quyết, nghiêm khắc xử lý, con tầu không thể nào vượt qua được sóng gió để đến được bờ bến bình yên mà chắc chắn sẽ bị lật nhào, chìm nghỉm tận dưới lòng biển sâu! Cuộc kháng chiến của chúng ta cũng như tất cả các cuộc chiến mà nhân loại đã trải, cũng như Liên Xô và lực lượng Đồng minh đã chiến thắng Phát xít, hòa bình đã không tự đến, hòa bình chỉ đến với nhân loại, đến với dân ta bằng việc đánh đổi rất rất rất nhiều máu!
***
Chiến tranh đã lùi xa 40 năm, cũng như mọi thành công trong cuộc đời, bản thân sự chiến thắng chính là chứng cớ sống động nhất chứng tỏ tài trí, đạo lý thuộc về những người làm nên chiến thắng đó. Nếu sự thật lịch sử không tiến theo đường thẳng, bước đi của lịch sử không được trải thảm, thực tế phải trả giá cao hơn, ta sẽ càng thấy quý giá hơn chiến thắng đó. Vậy mà đến nay vẫn có những cuốn sách như Đèn cù ra đời. Có điều ngược đời là, với tham vọng bôi đen lịch sử bằng việc kể ra “sự thật” những chuyện thâm cung bí sử nhưng Trần Đĩnh lại tự khoe là “tôi bịa”, “Tôi dựng ”, “tôi viết theo sự pha phách thêm nếm”. Như vậy, lịch sử VN vốn là vàng ngọc, nó không tùy theo “góc nhìn” của Trần Đĩnh, Trần Đĩnh không thể bôi đen được mà chỉ tự bôi bẩn thêm gương mặt của chính mình. Đèn cù chỉ được mỗi việc cho những người chống chế độ lợi dụng. Để lấy lòng họ, Trần Đĩnh còn tự nhận mình chỉ là một kẻ “bồi bút”, như một sự sám hối, ăn năn. Vì thế đọc loại như Đèn cù chúng ta sẽ chỉ thấy sự nhỏ nhen tầm thường của những người viết, sẽ thấy họ giống như những kẻ ẩn núp ở bờ bụi ném bùn vào áo cô dâu hoặc chỉ là những kẻ chọc gậy bánh xe mà thôi!
17-11-2014
ĐÔNG LA
0 nhận xét:
Đăng nhận xét