Đây là bài thứ 2 người ta chọn để làm gì tôi cũng chưa biết cụ thể. Trong thời buổi thực dụng xôi thịt này, đăng cái bài này lên thì sẽ có được mấy “like”? Nhưng like hay o với tôi là vô nghĩa nên tôi vẫn đăng lên. |
TRÊN CÁNH ĐỒNG KÝ ỨC
Tôi vốn yêu văn chương. Nhưng lại yêu theo một kiểu đặc biệt, yêu mà hồi nhỏ rất ngại học môn văn, rất ngại đọc, thường chỉ thích nổi những gì có thể tạo được cho mình những ấn tượng khác lạ. Tuy vậy, không hiểu sao vẫn có những câu thơ, chúng đã không trôi vào trong lãng quên, mà lại rất tự nhiên neo lại trong ký ức tôi. Khi cầm bút viết phê bình, tôi đã nhiều lần tự hỏi, cái gì đã làm cho chúng có cái khả năng ấy? Và, trong quá trình dần tự trả lời, tôi thấy nó liên quan nhiều đến bản chất của công việc sáng tạo thơ ca. Trước hết, bởi chúng chính là sản phẩm của sự lao động sáng tạo đích thực, chúng chính là kết quả của sự lạ hóa cách thức biểu đạt ngôn ngữ của các thi sĩ, xuất phát từ bản chất tâm lý của con người. Ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp, luôn có tính võ đoán và tuân theo những quy tắc, thế nhưng, để tăng cường tính ấn tượng khả năng biểu cảm, con người thường có cách nói chệch ra khỏi những chuẩn mực thông thường ấy. Điều này còn được thể hiện nhiều hơn trong thơ ca. Không một tài năng thơ ca nào không có khả năng này. Nếu thiếu nó, người ta không thể trở thành một nhà thơ đích thực được, mà chỉ là một người thợ, chỉ có thể làm ra được những bài thơ chung chung, diễn tả những tình cảm chung chung, kể lể những chuyện chung chung… mà thôi. Chúng chưa thực sự là thơ, bởi dù có vần điệu, chúng cũng chỉ như văn vần; còn nếu không vần, chúng chỉ là một mớ lời nói lổn nhổn chữ nghĩa. Chỉ có tác động một cách chủ quan vào sự biểu đạt của ngôn ngữ mới tạo ra được những sắc thái biểu cảm mới lạ, lúc ấy, những điều bình thường sẽ có một diện mạo mới, tính chất mới, một khả năng chinh phục mới. Dường như nó không chỉ là một đặc điểm riêng của thời nào, vùng nào, mà là một trong những thuộc tính chủ yếu của công việc sáng tạo thơ ca…
Ngay từ thời Đường, Lý Bạch cũng đã có nhiều cái nhìn khác lạ. Trong bài Tĩnh dạ tư (Nghĩ trong đêm thanh tĩnh), với con mắt thi sĩ, ông đã thấy ánh trăng trước đầu giường đậm đặc như một màn sương vậy: “Sàng tiền minh nguyệt quang” (Trước giường trăng tỏa sáng). Nghi thị địa thượng sương (Ngỡ mặt đất phủ sương). Trong bài Thu Phố ca (bài ca Thu Phố) ông còn thấy tóc người ta không phải dài theo thời gian mà lại dài theo nỗi buồn: “Bạch phát tam thiên trượng” (Tóc trắng ba ngàn trượng). Duyên sầu tự cá trường (Theo tình buồn dài ghê). Đặc biệt, khi tiễn người bạn thơ Mạnh Hạo Nhiên đi Dương Châu, ông đã thấy cánh buồm, dòng sông, từ một khung cảnh của cuộc đời thực đã trôi thẳng vào trong tận cõi tiên! Có phải, với cách nhìn như vậy, người đời đã phong cho ông là thi tiên hay không?
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
Tạm dịch :
Cánh buồm xa hút giữa tầng không xanh biếc
Chỉ thấy Trường Giang chảy giữa trời
Trong thơ hiện đại Việt Nam cũng có những câu có cách biểu đạt khác lạ như vậy. Có chúng, bài thơ lung linh hơn. Mấy câu thơ của Huy Cận không biết tôi đã đọc ở đâu mà cứ nhớ mãi :
Gió lạnh chiều đông xui nhớ thưở
Bẫy chim chèo bẻo nấp bên bờ
Hôm nay ta nấp thơ giăng lưới
Bẫy tháng năm về bắt tuổi thơ
Khổ thơ có sự lặp lại hai chữ nấp, hơi bị kém đi, nhưng với cách biểu đạt thật độc đáo, chúng vẫn gây được nhiều rung động. Bởi chỉ có một tâm hồn thi sĩ, người ta mới có thể giăng bẫy “bắt tuổi thơ” của mình, lại còn bằng chính cái tấm lưới đặc biệt, được dệt bằng thơ ca như thế.
Cũng về chuyện “chài lưới”, bằng một ẩn dụ, con mắt thi sĩ của Đỗ Trung Lai đã thấy những hạt nước rơi từ lưới chiếc vó bè như những chùm sao lung linh:
Tiếng một con tôm búng nước
Vó bè ai cất sau lưng
Sao trời lọt qua mắt lưới
Rơi đầy xuống cả mặt sông
Để thực hiện sự lạ hóa, trong con mắt các thi sĩ, tất cả mọi sự vật đều có một cuộc sống, tất cả đều bình đẳng, đều có một tâm hồn, một tính cách. Cảnh những con tầu ở cảng dường như đã quá quen thuộc, người ta chụp ảnh, vẽ tranh nhiều rồi. Nhưng chỉ bằng vài chữ thôi, với một nhân cách hóa, Thanh Thảo đã vẽ nên một bức tranh thật thơ mộng, thật sống động:
Dăm bảy con tàu gối bến ngủ lơ mơ
Cũng bằng một nhân cách hóa, Phan Quế lại thấy ngọn gió bấc cũng đầy ấn tượng :
Ngọn bấc qua đông còn quặn lại
Sương lạnh đầm đìa mặt cỏ giêng hai
Phùng Khắc Bắc, một tác giả có những bài thơ đầy tâm trạng, đầy tài năng, tưởng như chính con người anh phải chết đi, đứa con tinh thần mới được xuất hiện. Anh có những câu thơ, hình ảnh thơ, ý tứ thơ, rất khác lạ, như xoáy vào tâm não người ta:
Con số tám là vòng tròn vặn mình
Giống như người đang quay ngoái lại
Lưu Quang Vũ, một số phận tài hoa mệnh bạc khác, cũng có những câu thơ có độ “khác lạ” tương đương như thế:
Tóc em dài như một ngày mỏi mệt
Đến bất ngờ hóa nắng giữa lòng đau
Có những sự khác lạ độc đáo được được tạo ra một cách rất tự nhiên từ những cảnh vật, sự việc rất bình thường, tưởng như không khó khăn gì cả, nhưng có khi cả đời người viết không lặp lại được. Chính Hữu, dù ông có thể còn nhiều câu thơ hay khác nữa, nhưng không thể có câu nào mà vừa hay vừa giản dị như câu này:
Đầu súng trăng treo
Nhà thơ Vĩnh Mai cũng có hai câu thơ giản dị mà gây được xúc động tương tự :
Mùa thu dừng lại ở Long Biên
Để một mình tôi lên Vĩnh Yên
Mùa thu là một khái niệm chỉ thời gian, tất phải bao trùm cả không gian, nhưng Vĩnh Mai lại thấy nó “dừng lại” ở một địa chỉ cụ thể, cứ như một người bạn tiễn đưa nhau vậy! Cũng như thế, lẽ ra một con sông chỉ có thể “nghiêng nghiêng” khi chảy qua một vách núi, lượn theo một triền đồi, nhưng Hoàng Cầm lại thấy con sông của mình “nghiêng nghiêng” tận trong cuộc kháng chiến cơ:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Tương tự, Nguyễn Duy cũng có một giác quan người thường không có. Anh không nhìn mà “nghe” thấy sợi tóc đang bạc :
Có người ngủ thế thành quen
Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình
Còn Nguyễn Khoa Điềm, khi người ta chỉ có thể thấy tư thế ngủ nghiêng trong cuộc đời thực, riêng ông còn thấy có một “giấc ngủ nghiêng” nữa:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Và Hữu Thỉnh, khi quàng vai bạn mình, ông còn chạm được cả vào một cái vô hình, cái mà chỉ có một tâm hồn thi sĩ thật nhạy cảm mới có thể cảm nhận được:
Quàng vai bạn vô tình ta chạm phải
Cái cựa mình tin cậy của rừng đêm
Có một thời, tôi thấy các thi sĩ có quan tâm đến cách viết nhưng dường như chưa coi trọng đúng mức, thường chú ý nhiều hơn đến nội dung phản ánh, mà lẽ ra phải coi như nhau mới đúng. Chính vậy, đã có nhiều bài thơ có một nội dung tốt nhưng rất ít quyến rũ. Mà như nhiều người nói, tính chất quan trọng nhất của thơ ca chính là cái khả năng quyến rũ ấy. Một nội dung phải được thể hiện bằng những ngôn ngữ sao đó, nếu không, nó rất ít tác dụng. Bởi chỉ để phản ánh một chuyện nào đó thôi, có rất nhiều loại hình khác làm tốt hơn thơ ca nhiều. Ngược lại điều trên, cũng có nhiều thi sĩ, nhất là các bạn trẻ, lại coi trọng cách viết nhiều hơn nội dung thể hiện. Điều này cũng sai. Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng không bao giờ không gắn bó với cuộc sống. Brodsky từng thể hiện quan niệm của mình khi được hỏi về sự khác nhau giữa thơ Mỹ và thơ châu Âu: “Thơ Mỹ là một nền thơ có trách nhiệm… thơ nhằm lý giải sự đau ốm của con người nhà thơ và của xã hội mình”. Còn Marquez, khi còn trẻ mới tốt nghiệp đại học, cũng là một người sính hình thức. Ông đã sáng tác rập khuôn theo bao kiểu đã học trong trường, nhưng rồi đã nhận ngay ra rằng, tri thức chỉ là công cụ, ông chỉ có thể sáng tạo ra được những tác phẩm đích thực khi biết sử dụng cái công cụ ấy khám phá, tái hiện những diện mạo mới của cuộc sống… Vì vậy, ai đó nếu không chú ý nâng cao vốn sống, tìm kiếm những chất liệu sáng tạo, sẽ chỉ tạo ra được những tác phẩm màu mè, hoa hoè hoa sói, môi mép đỏm dáng mà thôi. Nhưng sự phân biệt cái độc đáo và cái uốn éo này, không phải ai cũng làm được.
Bình Thạnh
7 -3 - 2000
0 nhận xét:
Đăng nhận xét