ĐỨT NỐI CHƯ PRÔNG

Chính lúc ấy, tôi thấy một cái cổ vằn vện nhô lên ngay sát đường, ngay sát cái xe ô tô của chúng tôi. Lái xe cũng nhìn thấy, anh thắng kít lại. Tất cả chúng tôi bàng hoàng nhìn một con hổ rất lớn lững thững và yểu điệu trườn qua đường. Dáng đi của con hổ rất đẹp rất mềm mại, đầu nó ngoảnh về phía chúng tôi, bóng tối loang trên đường càng làm bật lên cái màu vàng đen trắng xen kẽ của lông hổ. Lái xe rút xoạt khẩu AK dựng sát lưng.
---------



          Lần ấy, cách đây chừng 20 năm, tôi đi cùng với chủ tịch huyện Chư Prông là chị Rơ Lan Hơ Bình lên mấy xã biên giới Campuchia. Khi về, chiều chạng vạng. Xe cứ rẽ cứ vạt lau lách mà bò. Cái Uoat chất 15 người, riêng ghế trước là 3 người, có chị Bình, tôi và một người nữa. Thò tay ra ngoài cái miếng kính lật đặc trưng của xe Uoat để giữ nó ngược chiều gió cho gió lọt vào trong xe, tay tôi bị cỏ lau cứa rất xót. Chính lúc ấy, tôi thấy một cái cổ vằn vện nhô lên ngay sát đường, ngay sát cái xe ô tô của chúng tôi. Lái xe cũng nhìn thấy, anh thắng kít lại. Tất cả chúng tôi bàng hoàng nhìn một con hổ rất lớn lững thững và yểu điệu trườn qua đường. Dáng đi của con hổ rất đẹp rất mềm mại, đầu nó ngoảnh về phía chúng tôi, bóng tối loang trên đường càng làm bật lên cái màu vàng đen trắng xen kẽ của lông hổ. Lái xe rút xoạt khẩu AK dựng sát lưng. Hồi ấy trên tất cả các xe đi công tác đều có AK, nhưng chị Bình gạt đi, kệ nó, không đuổi theo được đâu, tối rồi, nó vồ mình đấy. Hồi ấy chưa như bây giờ, có bắn được có khi cũng hòa cả làng. Ấn tượng của tôi với Chư Prông là từ con hổ lững thững an nhiên cuối chiều ấy.

          Giờ rừng đã hết, lau lách cũng chả còn, chỉ còn trơ ra màu đất đỏ nhão nhoẹt trong mưa hoặc bụi mù trong nắng. Mười mấy năm, sự thay đổi cả hình lẫn vóc. Cái khác nhất là giờ đi nhanh hơn. Trước muốn vào các xã Ia Lâu, Ia Mơ phải mất cả ngày đường, mang theo cơm đùm cơm nắm, tối phải ngủ lại. Hồi ấy nhờ một lần ngủ lại ấy mà tôi được ăn một bữa cá suối đã đời. Một anh trong đoàn mang theo một quả nổ. Tung xuống suối Ia Mơ rồi chúng tôi ào xuống, cá chết, cá lờ đờ, cá loạng quạng… vớt được một xoong quân dụng đầy. Luộc chấm muối ớt với sả rừng, ăn thay cơm rồi chiếu phim phục vụ đồng bào, gần như chiếu cả đêm, sáng sớm lên đồn biên phòng… ngủ.
                Tôi vừa đọc trên facebook của một bạn yêu Tây Nguyên những câu đau đáu: “Tây nguyên xuất hiện nhiều đô thị trẻ nhưng rừng già thì đã mất. Cây Kơ nia trở thành cây cảnh, chỉ thấy thấp thoáng đâu đó trong sân các cơ quan nhà nước. Nhạc cụ tre trúc mất nơi neo đậu. Nhà dài bị chặt khúc, tiếng cồng tiếng chiêng chỉ còn là TIẾNG NẤC CỤT. Đã có rất nhiều Tây Nguyên trong một Tây Nguyên. Tây Nguyên nhà lầu xe hơi. Tây Nguyên cafe, cao su, tiêu, điều. Nhưng cũng có Tây Nguyên "Đôi mắt Plei Ku" thất thần. Vô hồn. Tây Nguyên "H'Ren" không còn rẫy để lên. Nheo nhóc đàn con trứng gà trứng vịt. Tây Nguyên Đam San không còn đóng khố, không còn voi để cưỡi, cũng không uống rượu ghè. Đam San mặc đồ Tây, cưỡi xe máy, uống bia "ken". Hết xiền thì đi làm thuê. Tây Nguyên thở dài. Tiếng thở "dài như một tiếng chiêng ngân.”. Là tâm trạng cá nhân, cũng có thể có điều gì đó hơi quá, nhưng toàn cục nó là một ta thán đúng. Chúng ta đang đứng trước những lựa chọn sinh tử, giữa bảo tồn và phát triển, giữa văn hóa và văn minh, giữa hôm nay và ngày mai, giữa ăn ngay và để dành, giữa thói tham lam trục lợi và những ứng xử nhân văn dài lâu, giữa việc lợi dụng và cái hết lòng vì cộng đồng, cố níu lấy, giữ lấy những gì là đẹp, là tốt, là vững bền cho hậu thế…
 
Năm nay những ngày gần 27/7 trời đột ngột mưa. Chư Prông mà mưa thì khiếp lắm. Đất đỏ nhão nhoẹt và trơn như đổ mỡ. Chúng tôi về huyện đúng một ngày mưa như thế. Mà thà nó mưa to, chứ mưa dầm là rất khó chịu… Thị trấn vẫn vậy, có chăng là có thêm một cái đèn đường nhưng… không sử dụng ở một ngã tư. Vào thăm 5 gia đình thương binh và liệt sĩ đều thấy những cám cảnh nhưng không biết cách gì chia sẻ. Gần 40 năm sau chiến tranh, sự tàn phá của nó vẫn còn hiện diện một cách rõ ràng và dứt khoát. Ấy là một chị thương binh người Huế. Chị bị thương năm 1972 ở Hương Thủy- Thừa Thiên Huế, rồi di chuyển rất nhiều trại thương binh từ Quảng Bình ra đến Thái Bình, rồi không hiểu sao lại dạt vào Chư Prông, lấy chồng sinh con. Vấn đề là, đứa cháu nội của chị, con của đứa con trai đầu, cũng bị ảnh hưởng chất độc da cam… 3 tuổi mà nó bé tí, cái cổ cứ thẳng đơ và mặt thì chỉ nghiêng được về một phía, 2 cái chân khẳng khiu vênh vẹo và cứng đơ. Họa vô đơn chí, chúng tôi chỉ biết chép miệng và chia sẻ nỗi đau ấy bằng cách động viên suông với những lời rất sáo chứ có thể làm gì được đâu. Một túi quà, một cái phong bì, chả thể làm gì và chẳng thể so với nỗi đau mà người thương binh, người bà, người mẹ kia gánh.





          Nằm sát với thành phố Pleiku, cái gì cũng nhỏ, cũng ít hơn Pleiku, nhưng có một cái có thể “cạnh tranh” được với thủ phủ của thành phố của tỉnh Gia Lai, ấy là số thương binh và liệt sĩ của huyện. Nơi đây từng là chiến trường rất ác liệt với những Plei Me, Ia Đrăng, làng Bạc, Bàu Cạn... Chỉ riêng 2 cái tên Plei Me và Ia Đrăng nếu chịu khó đọc thì thấy địa danh ấy nó đã oai hùng đến mức nào...

          Đầu năm 1960, Mắc Na Ma Ra khi ấy là bộ trưởng quốc phòng Mỹ cho ra đời một sư đoàn mới trong quân đội Mỹ là sư đoàn Kỵ binh bay. Đây là sư đoàn cực kỳ thiện chiến với quân số khoảng 16 nghìn người, được trang bị 434 máy bay trực thăng, 1.600 xe các loại, 54 khẩu pháo 105mm, 78 dàn rốckét với 1.872 ống phóng lắp trên máy bay trực thăng vũ trang. Với ưu thế nhiều mặt, nó được giao nhiệm vụ “tìm và diệt” đối phương và cũng để phản ứng kịp thời, thích hợp trong chiến tranh “chống nổi dậy” ở Việt Nam. Và sư đoàn này đã tham chiến ở trận Ia Đrăng- Plei Me thuộc huyện Chư Prông bây giờ.

          Tôi đã đến cái nơi đánh nhau nổi tiếng ấy từ cách đây hơn hai chục năm. Khi ấy nó còn vài cái hầm, thi thoảng nhặt được mấy mảnh đạn (giờ chắc hết rồi vì số người đi đào phế liệu đông đảo đến như thế), không thấy một cảm giác gì của chiến sự nữa. Và quả thật, với tư duy dê zô về quân sự của mình tôi không thể hiểu nổi tại làm sao mà quân đội 2 phía lại phải đổ dồn vào cái thung lũng bé tí này đến gần 4000 quân để quần nhau bê bết thịt trộn xương trộn máu trộn mưa trộn đất đỏ… trong mấy ngày, để rồi sau đấy, cả tướng Oét Mo Len lẫn tướng Moore cùng phải nói như kết luận: “Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam”.

          Lúc xảy ra trận đánh Ia Đrăng- Plei Me thì tướng Đặng Vũ Hiệp lừng danh sau này mới là sĩ quan cấp thượng tá. Người chỉ huy trực tiếp là tướng Chu Huy Mân, khi ấy là thiếu tướng, cùng 2 phó là đại tá Nguyễn Chánh và thượng tá Nguyễn Hữu An- sau này các ông đều là những danh tướng của quân đội Nhân dân Việt Nam. Năm 1994 khi tướng Moore- lúc đánh nhau ở đây ông này là trung tá tiểu đoàn trưởng- sang thăm lại “chiến trường xưa” tôi có gặp được ông một lúc. Ông này không hề khách sáo khi nói rằng hồi ấy các ông đã thua vì một là quân Việt Nam quá mạnh, và 2 là cái thung lũng ấy nó khắc nghiệt quá. Quân của các ông dù là kỵ binh bay nhưng cũng chịu không thấu với khí hậu, thời tiết thông thổ ở đấy. Một đại tá Việt Nam nói thêm với tôi: Thực ra trong trận ấy ta đã thực hiện phương châm lấy nhiều địch ít. Quân số thực tế trong trận ấy của ta gần gấp đôi Mỹ, tất nhiên vũ khí thì Mỹ hiện đại hơn gấp nhiều lần ta.


          Sau này trong văn học nghệ thuật có 2 sự kiện về trận này. Một là cuốn tiểu thuyết “Lính trận” của nhà văn Trung Trung Đỉnh viết về trận này được giải thưởng Hội Nhà Văn, và 2 là bộ phim “Chúng tôi từng là lính” đã “khai tử” tên tuổi một diễn viên rất nổi tiếng của Việt Nam là Đơn Dương khi anh đóng nhân vật chính của bộ phim này, đã xuyên tạc người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam, điều mà ngay cả trong hồi ký của tướng Moore cũng không làm. Ông này là người trực tiếp tham chiến, thua trận, về Mỹ viết hồi ký vẫn: “lính Mỹ công nhận kẻ thù là những chiến binh khôn khéo, luôn tìm cách tập kích hoặc cơ động đánh vào sườn, và "giỏi không chịu được"”. Cái trận Plei Me này cực lớn nhưng không hiểu sao ít được nhắc. Ngay rất nhiều người dân Chư Prông, hỏi họ về trận này nhiều người cũng không biết.

          Cũng khoảng năm 83 của thế kỷ trước, tôi đi cùng với mấy nhà văn ở Nhà xuất bản Phụ Nữ về làng Bạc, gặp một nhân vật rất hay, là nguyên mẫu cho nhà văn Vũ Thị Hồng viết một cái ghi chép dài 15 trang và nhà thơ Nguyễn Thị Hồng thì làm bài thơ “Bình dị” cũng rất hay, được giải thưởng tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Nhân vật ấy là chị Hơ Noanh. Sau này tôi còn quay lại đưa đạo diễn Đoàn Huy Giao làm phim về chị trong một bộ phim mà tôi viết kịch bản.



          Tóm tắt về chị thế này: Là trung đội trưởng trung đội du kích làng Bạc, chị đã chỉ huy trung đội đánh nhau rất giỏi để giữ làng, đến nỗi đối phương nghe đến đến tên chị là khiếp đảm. Rồi chồng chị, một chiến sĩ trong trung đội của chị hy sinh trong một trận chống càn, khi chị mới 19 tuổi và có một con gái. Theo phong tục, chị lại… nối dây với em chồng, cũng là chiến sĩ du kích làng Bạc,  và cũng chỉ một thời gian sau thì anh này mất. Chị tiếp tục nuôi con, làm công tác và nuôi mẹ chồng. Sau giải phóng, chị nhường hết tiêu chuẩn liệt sĩ cho mẹ chồng, còn mình làm rẫy nuôi con và làm phó công an xã rồi chủ tịch phụ nữ xã. Chị sống giản dị đến mức kinh ngạc. Tôi cũng từng vài lần thắc mắc tại sao chị không được phong anh hùng? Nhưng chị thì không quan tâm... Năm 1990 chị được thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì và chế độ mỗi tháng 110.000đ, được huyện hỗ trợ 1 căn nhà, và sau đó vào làm ở công ty cà phê…





          Là cứ chập chờn đứt nối về Chư Prông như thế trong một chiều Cao nguyên mưa. Giờ tại Chư Prông có một công ty cao su khá lớn, công ty Cao su Chư Prông. Các công ty, nông trường này một mặt tạo công ăn việc làm cho dân tại chỗ, mặt khác nó tạo nên một diện mạo mới cho những vùng nông thôn xa xôi. Xuống huyện Chư Prông bây giờ, vào phía công ty cao su lại thấy nhộn nhịp sầm uất hơn thị trấn huyện cách đấy 3 cây số. Chỗ nguyên là công ty cao su này, ngày xưa cũng là rừng, mà là rừng già. Người ta cũng đang cãi nhau xem cao su có phải là rừng không? Trời ạ, cao su là cây công nghiệp, có thể nó tạo sự đổi đời ngay lập tức trong vòng mấy mươi năm, còn rừng, nó là sự kết tinh của đời sống dòng họ hàng ngàn năm, vạn năm, triệu năm, nó có đời sống của nó, có văn hóa của nó, văn hóa rừng. Những con người lấy rừng làm bầu bạn, lấy rừng làm lẽ sống đã sinh ra một thứ văn hóa rừng, họ tồn tại an nhiên với rừng, và ngược lại, rừng tốt tươi sinh sôi hài hòa với con người, bảo vệ nhau, nâng đỡ nhau và cùng tôn nhau trong một đời sống tưởng hoang sơ nhưng đậm triết lý nhân văn và duy mỹ. Cũng y hệt như người Kinh với văn minh lúa nước. Giờ, đời sống có khá lên, đường xá mở ra, những người Jrai, Bahnar không đi hàng một tự tin trong rừng thì lại ngơ ngác đeo gùi đi giữa phố giữa tấp nập người xe váy áo thơm lừng. Sự hòa nhập với họ còn cần khá nhiều thời gian, cũng như họ đã cần hàng ngàn năm để hòa nhập nương tựa vào rừng. Mùa mưa này, cao su đang ướt lá… chợt nhớ mấy câu thơ tôi viết năm nào:… Mù khơi mưa lá mưa sương/ đất thở ấm/ cao su thao thức muốt/ gương mặt người hiển hiện mấy mươi niên/ Sự thánh thiện xuyên đêm/ hoa ngái người xa ngôi sao độc ẩm/ ai bồi hồi phương trời khuya/ Chư Prông/ tưởng đâu ngổn ngang chiến địa/ hôm nay xanh nhòe đồi/ cao su vút phía chân trời thấp lại/ em tinh khôi lấp ló mắt cười

          Vẫn biết, phía ấy có những đôi mắt cười và những đôi mắt đau…
                                                          Pleiku 31/72013
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét